15 thg 10, 2013

Nhật ký hành trình Che Guavara

NHẬT KÝ HÀNH TRÌNH CHE GUAVARA



Cuốn nhật ký đặc biệt này được Che viết lúc mới 23 tuổi khi thực hiện cuộc hành trình xuyên Châu Mỹ La Tinh bằng chiếc xe mô tô 500 phân khối trong 9 tháng với một người bạn thân tên Alberto Granado.

Cuốn nhật ký thể hiện những trăn trở, suy tư và khát vọng của một chàng trai suy tư và khát vọng của một chàng trai tài hoa, lãng tử, ngang tàng, thích phiêu lưu mạo hiểm, có nội tâm gần gũi, dám sống thật và luôn ước mơ về một tình yêu đẹp. Cuộc hành trình này đã góp phần lớn tạo nên tầm nhìn và con người Che sau này.


Từ một sinh viên y khoa đầy tình người, vốn bản tính không chấp nhận sống một cuộc đời chật chội, bó hẹp với những khuôn khổ, những lối mòn đã định sẵn. Che thích khám phá và quyết tâm đi tìm chân giá trị cho chính mình, cho mọi người và đã trở thành một con người bản lĩnh, xem nhẹ tất cả, dám chống lại mọi sự bất công, một con người dám suy nghĩ, hành động và dám hy sinh để thay đổi thế giới, một con người dám đi đến tận cùng với ước mơ hoài bão của mình.

Đây không phải là câu chuyện về những hành động anh hùng phi thường, hay là những ghi chép kể chuyện của một kẻ nhiều chuyện. Đây là những trải nghiệm khám phá cuộc sống và cảm xúc thật cùng những ý tưởng trong một cuộc hành trình phiêu lưu lãng tử, đầy vất vả, gian truân Che Guavara. Cuộc hành trình thú vị và đầy thử thách của hai con người trẻ tuổi rong ruổi bên nhau trên một chiếc xe gắn máy cũ cùng với những gì chứng kiến chưa từng được thấy từ thực tế đã thổi bùng lên ngọn lửa ước mơ và khát vọng của một con người muốn chinh phục và thay đổi thế giới xung quanh. Và con người đó đã dám sống và làm như vậy. Con người mà sau này cái tên đã trở nên một huyền thoại – Che!
Che sinh ra và lớn lên tại Argentina, tham gia cách mạng và chiến đấu ở Cuba, và hy sinh ở Bolivia khi vừa 39 tuổi. Anh xuất thân từ một một gia đình trung lưu thuộc dòng dõi những người thích dấn thân vào những chuyện phiêu lưu, mạo hiểm. Ngay từ thuở ấu thơ, Che đã nghĩ mình thuộc về thế giới này và đất nước Argentina chỉ là nơi sinh ra anh chứ không phải là nơi trú ngụ của anh. Và tất cả những yếu tố đó là cội nguồn của một đứa trẻ mà số phận đã định trước để trở thành một anh hùng. Đọc những dòng nhật ký chân thật của Che, chúng ta như được sống lại, đi cùng với cuộc hành trình khám phá của Ernesto Che Guevara thời trai trẻ. Bị thôi thúc bởi tiếng gọi của những con đường và những hoài bão lớn trong tim, khi đang là một sinh viên y khoa sắp tốt nghiệp, Ernesto Che Guevara đã cùng người bạn Alberto Granado rong ruổi suốt 9 tháng trời trên khắp các nẻo đường châu Mỹ La tinh bằng chiếc môtô La Poderosa II 500 phân khối. Hai người bạn trẻ đã cùng nhau vượt hàng ngàn dặm đường qua nhiều quốc gia với biết bao tình huống nguy hiểm và rủi ro, đói khát, giá lạnh, đau khổ, trôi giạt trong không gian và thời gian, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ bí ẩn của châu Mỹ La tinh, gặp rất nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, và cũng đã tận mắt chứng kiến những cảnh sống khốn cùng, tuyệt vọng của con người…

Chuyến đi đã ảnh hưởng sâu sắc đến chàng trai Ernesto, đã thổi bùng lên ngọn lửa ước mơ và khát vọng của một con người muốn chinh phục và thay đổi thế giới xung quanh. Những nhận thức từ thực tế cuộc hành trình đã nâng cao tầm nhìn của anh, khiến anh chấp nhận từ bỏ danh vọng của một bác sĩ và quyết tâm đem cả tâm huyết và sinh mệnh của mình để đấu tranh cho tự do, cho quyền được sống bình đẳng và ấm no của những con người còn bị áp bức trên thế giới: “Tôi biết điều này và tôi thấy điều đó in dấu trên nền trời đêm. Tôi biết rằng tôi sẽ vượt lên trên những học thuyết giả dối, chủ nghĩa giáo điều, cầm lấy vũ khí, vượt qua những rào cản và tiến lên. Và tôi thấy tôi hy sinh trong một cuộc cách mạng chân chính, mang lại công bằng và bình đẳng cho con người. Tôi thấy tôi đang hít thở mùi khét lẹt của khói súng và máu quân thù. Tôi rèn luyện bản thân, sẵn sàng chiến đấu, và chuẩn bị cho một vùng trời thiêng liêng, trong đó khúc hát khải hoàn của những người vô sản sẽ âm vang vô tận, cùng với sức sống mới và niềm hy vọng mới.”

“Che là hiện thân của một con người mà ý tưởng và hành động luôn đi cùng nhau. Một con người bản lĩnh và đầy tình người mà ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể.” - FIDEL CASTRO. Che Guevara là biểu tượng của hy vọng và niềm tin tuyệt đối, một tấm gương sáng ngời tinh thần quốc tế vô sản, một con người cương trực, thông minh không bao giờ chịu khuất phục, một người dám xả thân vì lẽ sống, vì cuộc sống của mọi người, chống lại mọi bất công từ bất cứ phía nào, bất cứ là ai. Cuộc đời Che là bảo vệ cho lẽ phải, cho những người bị áp bức không phân biệt dân tộc. Với Che: “Tình người là không biên giới!”

Chính vì vậy, dù chính kiến khác nhau, Che Guevara vẫn là hình ảnh được cả thế giới kính phục và ca ngợi. Báo chí Mỹ đã nhận định về cuốn “Nhật ký hành trình xuyên châu Mỹ La tinh bằng xe gắn máy” của Che như là một tác phẩm khám phá thế giới và hình thành nên con người Che sau này. Cuốn nhật kỹ này đã được dịch ra tiếng Anh xuất bản tại Mỹ và được chuyển ngữ qua nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Bản lĩnh, tính cách của Che Guevara và Nhật ký hành trình xuyên châu Mỹ La tinh bằng xe gắn máy đã chinh phục độc giả bằng một giọng văn đặc biệt chân thực với ngôn ngữ thú vị và giàu hình ảnh. Cuốn nhật ký cho thấy ngôn ngữ của Che ngay từ tuổi 23 đã rất sắc sảo và đầy cảm xúc, thể hiện tư chất của một nhà thương thuyết bậc thầy trên thế giới trong không đầy 10 năm sau đó. Hãy đọc, và đi cùng Che, trên chiếc xe gắn máy qua những ý tưởng và miền đất lạ. Hãy trải nghiệm và khám phá những điều mới mẻ, thú vị cùng với Che – và trong chính bạn.
1 - Tiếng gọi của những con đường
Đó là một buổi sáng tháng 10. Tranh thủ ngày 17 nghỉ lễ (1) tôi đã đến Cordoba. Bên dưới những giàn nho của nhà Alberto Granado, chúng tôi hớp từng ngụm trà thảo dược mate (2) ngọt dịu và bình luận về những biến cố gần đây trong "cuộc sống khốn khổ" này, đồng thời cùng sửa chữa chiếc La Poderosa II (3). Alberto rên rỉ về việc anh phải bỏ việc ở trại phong tại San Francisco del Chanar và phàn nàn về đồng lương ít ỏi hiện tại ở bệnh viện Tây Ban Nha. Tôi cũng đã bỏ việc, nhưng không như Alberto, tôi rất sung sướng khi ra đi. Bởi vì với tâm hồn mơ mộng, với khao khát lãng du, tôi cảm thấy bực bội và chán ngấy trường y, bệnh viện và những kỳ thi. Mê mải theo cơn mơ, chúng tôi đến những đất nước xa xôi, đến những vùng biển nhiệt đới sầm uất và đi khắp châu Á. Và đôi khi trong trí tưởng tượng của chúng tôi, một câu hỏi đột nhiên nổi lên: "Tại sao chúng ta không đi Bắc Mỹ?" "Bắc Mỹ ư? Nhưng bằng cách nào?" "Trên chiếc La Poderosa, bất chấp mọi điều có thể xảy ra. Sẽ rất thú vị. Đi nhé!" Chuyến đi đã được quyết định đơn giản như thế. Và nó không bao giờ sai lệch khỏi nguyên tắc cơ bản đã đặt ra từ giây phút đó: tất cả là do niềm hứng khởi. Anh em của Alberto cùng uống trà thảo dược trong khi chúng tôi cam kết sẽ không bao giờ bỏ cuộc nếu chưa thực hiện được ước mơ đó. Thế là bắt đầu một chuỗi những thủ tục nhàm chán và mất thời gian: xin visa, các loại hồ sơ chứng nhận, nghĩa là phải vượt qua rào cản mà những quốc gia hiện đại dựng lên trên con đường của các nhà du hành tương lai. Trong trường hợp này, để giữ an toàn, chúng tôi quyết định khai báo rằng chúng tôi sẽ đi Chilê.

Việc quan trọng nhất của tôi trước khi lên đường là phải thi càng nhiều môn càng tốt; Alberto phải chuẩn bị bảo dưỡng chiếc xe máy cồng kềnh cho một cuộc hành trình thiên lý, nghiên cứu và lên kế hoạch lộ trình. Đó là những nỗ lực lớn lao cho cuộc lữ hành. Nhưng khoảng thời gian ấy như thoáng qua trong phút chốc, trước mặt chúng tôi đã là bụi đường, là cảm hứng thám hiểm, là rừng núi và hàng ngàn cây số mịt mù về phía bắc. Con ngựa sắt khởi đầu rất trung thành và gắn bó với hai đứa chúng tôi trên những chặng đường gập ghềnh đầy cảm xúc. " Người lữ hành đúng nghĩa là người đi chỉ vì được đi; Trái tim không hề vương vấn, như mây bay gió thổi, anh bước theo số phận của mình. Cớ gì phải có lý do, chỉ một tiếng hô thôi: "Lên đường đi nào!". - Charles Baudelaire, Les Fleurs du Mal
2 - Biển rộng trời cao
Trăng tròn in bóng trên biển, bao phủ những đợt sóng bằng ánh trăng bàng bạc. Ngồi trên cồn cát, chúng tôi nhìn thủy triều lên xuống và đắm mình trong suy tư. Đối với tôi, biển là người bạn thủy chung, lắng nghe hết những nỗi niềm và không bao giờ tiết lộ những bí mật đó; biển luôn cho những lời khuyên tốt nhất - bạn có thể lý giải tiếng sóng đầy ý nghĩa theo muôn ngàn cách. Đối với Alberto, đó là một quang cảnh kỳ lạ. Mắt anh ngạc nhiên theo dõi từng đợt sóng trào dâng rồi tan biến trên bãi cát. Gần ba mươi tuổi, lần đầu tiên Alberto mới thấy Đại Tây Dương và tâm hồn anh tràn ngập những cảnh tượng kỳ bí của muôn vàn con đường dẫn đến những nơi tận cùng của trái đất. Gió biển mát dịu phủ đầy các giác quan bằng sức mạnh và trạng thái của biển; vạn vật đều chuyển biến khi có cơn gió lướt qua. Ngay cả con chó nhỏ Comeback(1) cũng hếch mũi lên, nhìn chằm chằm vào những dải lụa bạc nhấp nhô lăn tăn, lớn dần trước mắt. Comeback vừa là một biểu tượng vừa là một kẻ thoát chết: biểu tượng của sự hợp nhất đòi hỏi tôi phải trở về; một kẻ sống sót sau những tai nạn - hai lần rớt xuống xe môtô (trong đó có một lần nó bị văng ra khỏi xe cùng với cái ba lô), mắc bệnh tiêu chảy kinh niên và thậm chí có lần bị ngựa giẫm phải.

Chúng tôi đang ở Villa Gesell, phía bắc Mar del Plata, sung sướng đón nhận lòng hiếu khách của chú tôi và hồi tưởng lại chặng đường 1.200 km đầu tiên - dường như là chặng đường dễ nhất, nhưng cũng đủ để chúng tôi thấy nể chặng đường xa xôi mà chúng tôi đã vượt qua này. Không biết có thể đến nơi được không, nhưng chúng tôi đều biết là chuyến đi này sẽ rất gian khổ - ít nhất đó là ấn tượng của chúng tôi trong giai đoạn này. Alberto tự chế nhạo mình vì kế hoạch chi tiết đến từng phút của anh cho cuộc hành trình, mà theo đó lẽ ra chúng tôi đã gần đến đích, trong khi thực tế tất cả chỉ mới là bắt đầu. Chúng tôi cột chặt những túi rau quả và thịt hộp mà chú tôi cho vào chiếc xe và rời khỏi Gesell. Chú dặn chúng tôi gởi điện tín khi chúng tôi đến Bariloche để chú mua vé số, căn cứ vào các con số trên giấy điện báo, điều này với chúng tôi dường như có chút ít tính chất lạc quan. Nhiều người cho rằng chúng tôi nên chạy bộ còn tốt hơn là ngồi trên chiếc xe cà tàng có giá trị đồ cổ hơn là giá trị di chuyển này. Mặc dù chúng tôi cố chứng minh là họ lầm, nhưng một cảm giác lo lắng tự nhiên khiến chúng tôi không dám bày tỏ niềm tin chắc chắn vào cái xe đó hay sự thành công của chuyến đi.

Trên con đường chạy dọc theo bờ biển, con Comeback vẫn còn say sưa với niềm hứng khởi, cố ngóc đầu nhìn về phía trước đến mức nếu như có bị văng ra khỏi xe một lần nữa thì có lẽ nó cũng chẳng hề hấn gì. Chiếc môtô thật là khó điều khiển khi có một mớ đồ lỉnh kỉnh phía sau làm mất cân bằng; chỉ cần một chút yếu tay lái hay một sai lầm nhỏ là chúng tôi sẽ bay xuống đất. Chúng tôi dừng lại ở một cửa hàng thịt bên đường để mua thịt nướng; chúng tôi cũng mua một ít sữa cho con chó, nhưng nó không thèm ngó đến. Tôi bắt đầu lo cho sức khỏe của con vật nhỏ hơn là món tiền tôi đã bỏ ra để mua sữa. Nhưng thịt mà chúng tôi mua hóa ra là thịt ngựa, dai như cao su và chúng tôi không thể ăn được. Chán nản, tôi ném một miếng thịt đi và ngạc nhiên thay, con chó liền nhảy theo, cắn lấy miếng thịt nhai ngấu nghiến. Tôi ném một miếng nữa, và nó lại tung người lên. Sự biếng ăn của nó thế là đã có cách khắc phục. Hóa ra nó không thích cái gì cũng đưa tận miệng, ít ra cũng phải lao động chút ít gì đó chứ... Trong tiếng reo hò của những người hoan hô con Comeback, chúng tôi lên xe hướng về Miramar...
3 - Phút giây lãng mạn
Dự tính của tập nhật ký này không phải để đếm lại những ngày ở Miramar, nơi con Comeback đã tìm được một mái ấm mới. Chuyến đi của chúng tôi bị dừng lại nơi ẩn trú này, do những ràng buộc và lý lẽ của trái tim. Dù không nói lời nào nhưng có vẻ như Alberto đã thấy trước sự nguy hiểm và đã hình dung cảnh anh phải một mình rong ruổi trên những nẻo đường châu Mỹ. Đó là do sự dùng dằng giữa nàng (Chichina) và tôi. Trong giây phút khi tôi chiến thắng ra đi, thì những dòng thơ của Otero Silva(1) vang lên bên tai tôi: Tâm trạng thật khó tả - nhưng tiếng gọi của tự do và những con đường đã giúp tôi. Thế nhưng sau đó, như khúc gỗ lênh đênh nổi trôi theo từng lớp sóng, tôi không biết là mình có quyền nói "Ta đã chiến thắng" hay không. Hai ngày dự tính ở lại thế mà đã kéo dài thành tám ngày với những vị cay đắng ngọt ngào của lời giã biệt. Tôi như bị thổi văng ra khỏi những cơn gió phiêu lưu trong những thế giới mà tôi đã tưởng tượng là khoáng đạt lạ thường hơn tất cả, để rơi vào vùng không gian và những khoảng thời gian rất đỗi đời thường. Tôi nhớ ngày mà biển, người bạn thủy chung của tôi đến bên tôi, mang tôi ra khỏi trạng thái lênh đênh. Bãi biển hoang vắng và gió biển thật lạnh. Tôi nằm giữa ranh giới của đất liền và biển cả, ru hồn trong âm thanh của vạn vật xung quanh. Toàn thể vũ trụ trôi qua nhịp nhàng theo tiếng sóng, theo niềm hứng khởi của từng tiếng nói trong tôi. Đột nhiên, một cơn gió mạnh đưa vào tiếng nói khác thường của biển cả. Tôi ngẩng đầu lên ngạc nhiên, nhưng dường như chẳng có gì cả. Tôi lại nằm xuống, trở về với giấc mơ trong tiếng sóng vỗ về. Và rồi, lần cuối cùng tôi nghe thấy lời cảnh báo của biển. Tiếng sóng âm vang, ầm ầm như đập tan tành những thành lũy trong tôi, đe dọa vùng trời bình yên trong tôi.

Chúng tôi cảm thấy lạnh và rời bãi biển, trốn chạy khỏi thực tại náo động không để tôi yên. Biển vẫn nhảy múa với từng đợt sóng tràn lên bãi cát, không màng để ý đến quy luật muôn đời của nó và tuôn ra những lời cảnh báo của riêng mình. Nhưng người đàn ông đang yêu sẽ có lúc không muốn lắng nghe tiếng gọi của thiên nhiên. Yêu cầu tiên quyết đối với mọi nhà thám hiểm tài ba là một cuộc hành trình có hai điểm: một điểm khởi hành và một điểm đến. Nếu dự tính của bạn là làm cho điểm đến về mặt lý thuyết trùng khớp với điểm khởi hành thực sự, thì bạn đừng nghĩ về phương tiện cho chuyến đi - bởi vì cuộc hành trình là một ảo ảnh có thể kết thúc vào bất cứ lúc nào, và có rất nhiều phương tiện cũng như có rất nhiều cách để kết thúc. Tôi chợt nhớ lời khuyên chân tình của Alberto: "Vòng đeo tay! Nếu không thì cậu không còn là cậu nữa mất".

Bàn tay của Chichina nằm gọn ấm trong tay tôi. "Chichina! Chiếc vòng đeo tay... Anh có thể giữ nó để dẫn đường cho anh và để nhớ về em?" Thật tội nghiệp nàng! Tôi biết vàng chẳng có nghĩa lý gì, bất chấp ai nói gì về giá trị của nó; những ngón tay nàng im lặng cầm chiếc vòng đeo tay như đang cân nhắc tình yêu khi tôi đề nghị nàng tặng tôi chiếc vòng đó. Đó ít nhất là điều tôi cảm nhận chân thành vào lúc này. Alberto nói (theo tôi, hình như có chút ranh ma nào đó), không cần phải có những ngón tay nhạy cảm để cân đo được tình yêu trọn vẹn 29 carat của tôi. "Chúng tôi hòa quyện với nhau trong tình thân thiết. Điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể chia sẽ cho nhau những niềm vui và nỗi buồn. Cùng lúc đó, do bản lĩnh rụt rè cố hữu của anh về những chuyện thân mật, chúng tôi có thể cùng thấu hiểu nhau chỉ qua vài lời nói mà thôi."- Tita Infante, bạn học thời sinh viên và là bạn tri kỷ của Che.
4 - Tạm biệt và lên đường
Chúng tôi lên đường, sau đó dừng lại tại Necochea, nơi bạn học của Alberto đang thực tập. Chúng tôi dễ dàng vượt qua một chặng đường dài trong buổi sáng, đến Necochea vừa kịp bữa trưa với món thịt bò bít-tết. Người bạn đón chào chúng tôi thật nồng nhiệt, nhưng vợ của anh ta thì có vẻ không mặn mà gì lắm vì hình như cô ta cảm nhận được mối hiểm nguy trong suy nghĩ và những cách thưc không theo một khuôn phép nào của chúng tôi. "Anh chỉ còn một năm nữa là thành bác sĩ, thế mà anh lại bỏ đi. Anh cũng không cần biết khi nào mới quay về, đúng không? Vì sao vậy?"Chúng tôi không thể trả lời thỏa đáng và điều này làm cô ta càng khó chịu. Bên ngoài cô ta rất nhã nhặn nhưng vẻ khó chịu biểu hiện rất rõ, mặc dù cô ta biết chắc là cuối cùng thì chiến thắng cũng thuộc về mình - chồng của cô đã nằm ngoài "tầm ảnh hưởng" của chúng tôi. Tại Mar del Plata, chúng tôi đến nhà một bác sĩ bạn của Alberto. Ông đã gia nhập đảng Peronist với tất cả những ưu đãi và đặc ân. Vị bác sĩ này khi còn ở Necochea vẫn trung thành với quan điểm cực đoan của mình - tuy nhiên về chính trị chúng tôi hoàn toàn xa cách với cả hai phái. Tôi chưa bao giờ ủng hộ phái cấp tiến, còn đối với Alberto, chủ nghĩa cực đoan cũng mất dần tầm quan trọng và ý nghĩa của nó, mặc dù anh đã có một thời thân thiết và trân trọng những lãnh tụ của phái này. Sau khi cám ơn vị bác sĩ đã tiếp đãi tử tế và cho chúng tôi lưu lại ba ngày, chúng tôi lại lên xe tiếp tục cuộc hành trình đến Bahia Blanca, cảm thấy hơi cô đơn nhưng tự do hơn nhiều. Bạn bè mong chúng tôi đến đó, lần này là bạn của tôi. Họ tiếp đãi chúng tôi nồng nhiệt và ân cần. Chúng tôi trải qua nhiều ngày ở cảng phía nam này, sửa xe và đi lang thang quanh thành phố. Đây là những ngày cuối cùng chúng tôi không phải bận tâm về vấn đề tiền bạc. Sau đó chúng tôi phải triệt để tuân thủ chế độ ăn uống cực kỳ tiết kiệm các món thịt, cháo, bánh mì. Những mẩu bánh mì như muốn nói: "Ít lâu nữa, muốn gặp tớ không phải dễ đâu, anh bạn già ạ!", và chúng tôi ngấu nghiến những miếng bánh mì với tất cả nhiệt tình, như những con lạc đà tích lũy nước cho cuộc hành trình phía trước.

Đêm trước khi tiếp tục lên đường, tôi bị ho và sốt cao. Kết quả là chúng tôi rời khỏi Bahia Blanca trễ mất một ngày. Cuối cùng, vào lúc ba giờ chiều, chúng tôi ra đi dưới ánh nắng mặt trời chói chang. Mặt trời càng lúc càng như thiêu như đốt khi chúng tôi đến những đồi cát quanh Medanos. Chiếc xe môtô với đủ thứ đồ đạc chồng chất không cân đối cứ nhảy chồm lên, và tay lái thường xuyên chao đảo không tài nào kiểm soát nổi. Alberto chiến đấu một cách đau khổ với những đồi cát và nhất quyết giành chiến thắng. Chúng tôi đã phải dừng chân tạm nghỉ sáu lần trước khi vượt khỏi vùng đồi cát Medanos. Từ đây, tôi là người cầm lái, tôi tăng tốc để bù cho thời gian quý báu đã mất. Lớp cát mịn bị che khuất ở một chỗ quanh và - rầm: cú ngã xe tồi tệ nhất trong chuyến đi. Alberto không hề hấn gì nhưng chân tôi bị kẹt và bị bỏng nặng, để lại dấu ấn thật khó chịu một thời gian dài trước khi vết thương lành hẳn. Một cơn mưa như trút nước buộc chúng tôi phải tìm nơi ẩn trú tại một nông trại, nhưng để đến được nơi đó, chúng tôi phải vượt 300 mét đường lầy lội và phải chạy như bay. Người ta tiếp đãi chúng tôi thật tử tế, nhưng kinh nghiệm đầu tiên trên những con đường chưa được sửa chữa thật là kinh khủng: chín lần ngã xe trong một ngày. Nằm trên giường, chiếc giường đầu tiên chúng tôi có được trong chuyến đi, bên cạnh chiếc xe La Poderosa, con ốc sên tội nghiệp, chúng tôi vẫn nhìn tương lai với một niềm nao nức. Dường như chúng tôi cảm thấy tự do, dễ thở và rộng rãi hơn trong không khí nhẹ nhàng từ những vùng đất xa xôi, trong sự mạo hiểm mới mẻ, tiếng gọi của những con đường và những cuộc hành trình... Viễn cảnh về những đất nước chưa được biết, những chiến tích lịch sử anh hùng, xao động từ những cô gái xinh đẹp, đến rồi lại đi, luôn luôn thao thức trong tâm trí của chúng tôi. Cặp mắt mệt mỏi của tôi như không muốn ngủ và trong đôi mắt đó hai vùng màu xanh lá quay cuồng, tượng trưng cho cái thế giới mà tôi đã để lại phía sau và như đang trêu chọc cái gọi là sự giải phóng mà tôi đang tìm kiếm. Những hình ảnh đó như quyện chặt vào chuyến đi kỳ thú của tôi, băng qua những vùng đất và biển cả của thế gian. " Cát hừng hực như đang bốc lửa. Chúng tôi bị ngã xe mười hai lần. Mỗi lần ngả xe trước đó. Sau khi đến Medanos, Ernesto cầm lái. Chúng tôi lại ngã nhào đích đáng khi lao vào một đụn cát với tốc độ cao..." - Alberto Granado, Hành trình cùng Che Guevara.
5- Con ngựa sắt khốn khổ và bệnh cúm bất ngờ
Chiếc xe môtô thở phì phò, ì ạch trên một chặng đường dài mà không bị ngã thêm một lần nào. Và người chúng tôi bám đầy bụi đất, gương mặt phờ phạc vì kiệt sức. Chạy xe trên con đường đầy sỏi đá thô đã khiến chuyến du ngoạn thú vị trở thành một thử thách nặng nề.

Khi màn đêm buông xuống, sau một ngày trời liên tục bị chặn lại ở những trạm kiểm soát, chúng tôi được phép đi tiếp nhưng chỉ muốn ngủ ngay bây giờ vì đã quá mệt, thay vì tiếp tục cuộc hành trình đến thị trấn Choele Choel như dự định, nơi chúng tôi có cơ may tìm được một chỗ trọ miễn phí. Vì vậy chúng tôi dừng lại tại Benjamin Zorrilla, tìm một căn phòng tồi tàn tại nhà ga xe lửa, quăng chiếc xe bên ngoài rồi lăn ra ngủ như chết. Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm, nhưng khi tôi đi lấy nước pha trà mate thì một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm cơ thể, tiếp theo là một cơn ớn lạnh thật lâu. Mười phút sau, tôi run bắn, lắc lư như kẻ lên đồng. Những viên ký-ninh mang theo chẳng thấm thía gì và đầu tôi như một cái trống đánh lùng bùng những nhịp điệu kỳ lạ. Những hình thù kỳ quái mang nhiều màu sắc như nhảy múa trên tường và một vài cơn đau thắt khiến tôi nôn ra một chất lỏng màu xanh. Tôi phải chịu tình trạng này cả ngày, không ăn, không uống. Tới chiều, tôi cảm thấy khỏe hơn, đủ để có thể leo lên xe, và tôi tựa vào lưng Alberto ngủ trên đường đến Choele Choel. Ở Choele Choel, chúng tôi đến nhà bác sĩ Barrera, giám đốc một bệnh viện nhỏ và là thành viên của Quốc hội. Ông rất tử tế và cho chúng tôi một phòng để ngủ. Ông cho tôi một liều Penicillin và trong vòng bốn giờ tôi đã hạ sốt, nhưng bất cứ khi nào chúng tôi nói tới chuyện lên đường thì ông lắc đầu và bảo, "Bệnh cúm: phải nằm trên giường". Vậy là chúng tôi phải ở lại nhiều ngày tại Choele Choel, và tôi được chăm sóc kỹ lưỡng như một ông hoàng. Alberto đã chụp một bức ảnh cho tôi tại bệnh viện. Trông tôi lúc đó thật khủng khiếp: đôi mắt trũng sâu, hốc hác, đỏ ngầu và bộ râu rậm rì kỳ khôi (và hình dáng của nó không thay đổi suốt nhiều tháng trước khi tôi cạo nó đi). Tiếc là tấm ảnh chụp không rõ lắm, nhưng đó là một dấu ấn, ghi nhận hoàn cảnh đang thay đổi của chúng tôi và những đường chân trời mà chúng tôi đang tìm kiếm. Một buổi sáng, vị bác sĩ không còn lắc đầu như thường lệ nữa. Như thế là đủ. Thu xếp hành lý trong vòng một giờ, chúng tôi lại lên đường, hướng về vùng hồ ở phía tây. Chiếc môtô lại lắc lư, ì ạch lăn bánh. Nó cũng có những dấu hiệu căng thẳng, hơi rệu rã, đặc biệt là bộ khung xe. Chúng tôi phải liên tục siết ốc lại bằng món đồ nghề mà Alberto rất khoái dùng - dây thép. Không biết hắn cóp câu này ở đâu mà tự gán cho là của Oscar Galvez (1): "Khi một cọng dây thép có thể thay thế một con ốc vít, thì hãy đưa cọng dây thép cho tôi, vì nó an toàn hơn". Bàn tay và hai cái quần tả tơi của chúng tôi là bằng chứng rằng chúng tôi đồng tình với Oscar Galvez, ít nhất là sự nhận xét về dây thép. Trời đã về đêm, đường hoang vắng. Chúng tôi đang cố chạy đến nơi mà con người có thể trú ẩn được. Đèn trước của chiếc xe cà tàng đã hỏng, mà ngủ đêm ở ngoài trời thì chẳng hay ho chút nào. Chúng tôi phải đốt đuốc và chạy thật chậm. Khi chiếc môtô phát ra một âm thanh lạ lùng và cây đuốc không đủ ánh sáng để tìm ra bộ phận nào hư hỏng thì chúng tôi không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc phải dừng lại qua đêm. Chúng tôi dựng tạm một cái lều rồi chui vào, hy vọng có thể đè nén cơn đói khát bằng giấc ngủ mệt nhoài. (Chúng tôi đã hết thịt cũng như thức ăn mang theo, và ở đây cũng chẳng có nước). Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, làn gió chiều êm nhẹ lúc đầu giờ đã trở thành một cơn lốc mạnh, thổi tung chiếc lều và phơi chúng tôi ra giữa cái lạnh thấu xương. Chúng tôi bèn phải buộc chiếc xe vào cột điện thoại, trùm cái lều lên xe và nằm phía sau để tránh gió lạnh. Chúng tôi không thể dùng giường cá nhân trong cơn gió lốc. Đó là một đêm chẳng mấy dễ chịu, nhưng dù sao, giấc ngủ cuối cùng cũng chiến thắng cơn gió, cái lạnh và đói khát. Chúng tôi thức giấc vào chín giờ sáng hôm sau, khi mặt trời đã lên cao. Dưới ánh sáng ban ngày, chúng tôi phát hiện âm thanh kỳ lạ đêm qua là do phần trước của khung xe bị gãy. Chúng tôi cột tạm khung xe lại và tìm một thị trấn để hàn chỗ gãy. Cọng thép, một người bạn của chúng tôi, đã tạm thời xử lý ổn thỏa vấn đề. Chúng tôi thu xếp đồ đạc và lên đường, không biết còn bao xa nữa mới tới thị trấn gần nhất. Thật là một ngạc nhiên tuyệt vời khi đến khúc quanh thứ hai thì chúng tôi thấy một căn nhà. Họ ân cần tiếp đãi, làm dịu cơn đói của chúng tôi với món thịt cừu nướng tuyệt vời. Từ đó chúng tôi ì ạch dẫn bộ 20 kilômét đến một nơi có tên là Piedra del Aguila, nơi chúng tôi tìm được một nơi hàn xe, nhưng lúc đó trời đã tối và chúng tôi quyết định ngủ đêm tại đó.

Ngoại trừ vài lần ngã xe không làm xe hư hại bao nhiêu, chúng tôi tiếp tục lặng lẽ đến San Martin de los Andes. Khi gần tới nơi thì chúng tôi bị ngã một cú trời giáng ở miền nam (Argentina) tại một khúc quanh tuyệt đẹp nhưng đầy sỏi, gần kề một con lạch nhỏ. Lần này khung chiếc La Poderosa bị hư hỏng nặng, buộc chúng tôi phải dừng lại. Điều tệ hại nhất mà chúng tôi luôn lo sợ đã xảy ra: bánh sau bị thủng. Để vá xe, chúng tôi phải dỡ hết hàng hóa, tháo dây baga, và vật lộn với bánh xe bằng cái xà beng tồi tàn. Chúng tôi uể oải thay bánh xe mất hai tiếng. Vào lúc xế chiều, chúng tôi ghé vào một trang trại. Chủ trại là một người Đức nhiệt tình, rất giống ông chú đã mất của tôi, một người du hành lãng tử kỳ lạ mà tôi đang noi theo. Họ cho chúng tôi câu cá ở con sông chảy qua trang trại. Alberto quăng dây, và trước khi anh biết chuyện gì xảy ra, anh đã giật cần lên, kéo theo đầu lưỡi câu một hình thù lấp lánh giãy giụa dưới ánh mặt trời. Đó là một con cá hồi màu sắc tuyệt đẹp, trông rất ngon lành (thậm chí còn ngon hơn khi đã được nướng lên và nêm nếm bằng món gia vị đói cồn cào của chúng tôi). Tôi làm cá trong khi Alberto thừa thắng thả câu tiếp tục. Nhưng nhiều giờ trôi qua mà chẳng có thêm con cá nào cắn câu. Chắc ở đây chỉ có mỗi một con cá hồi! Trời đã tối và chúng tôi đành phải ngủ đêm trong nhà bếp của trang trại. Vào năm giờ sáng, cái lò khổng lồ ở giữa gian bếp được đốt lên, khói bay dày đặc. Những người nông dân giúp việc của trang trại chuyền nhau món trà đắng nghét của họ và ném những lời chế giễu cái món "trà mate dành cho đàn bà" của chúng tôi. Họ gọi món trà mate ngọt bằng một cụm từ như thế. Nói chung, họ không muốn giao tiếp với chúng tôi, như cách thức điển hình của những người bản xứ Arauca, một chủng tộc vẫn còn duy trì một mối ngờ vực, thù hằn sâu xa đối với dân da trắng - những người trong quá khứ đã mang tới cho họ nhiều bất hạnh và tới ngày nay vẫn còn tiếp tục bóc lột họ. Họ chỉ đơn giản trả lời câu hỏi của chúng tôi về vùng đất và về công việc bằng cách nhún vai và nói, "không biết" hoặc "có lẽ" rồi nhanh chóng kết thúc câu chuyện.

Điều may mắn là họ cho phép chúng tôi hái dâu. Tôi ăn nhiều đến nỗi khi chuyển sang cây mận thì đành phải nằm nghỉ một chút. Alberto chỉ ăn một ít để giữ vẻ lịch sự. Nhưng khi trèo lên cây thì chúng tôi ăn ngấu nghiến như thể đang tranh ăn với nhau. Thằng con trai người chủ trại nhìn lên cây và có vẻ không mấy tin tưởng vào những ông "bác sĩ" ăn mặc lôi thôi lếch thếch và rõ ràng là đang gần như chết đói này. Nhưng nó chẳng nói gì và cứ để chúng tôi ăn thoải mái. Đến lúc ra đi, chúng tôi phải bước thật chậm để khỏi đau bao tử. Chúng tôi sửa cần đạp và siết lại những ốc vít của chiếc xe máy rồi tiếp tục lên đường. Chúng tôi đến San Martin de los Andes trước khi trời sụp tối. Và nếu có ai bảo rằng chúng tôi rất lãng mạn, rằng chúng tôi là những kẻ liều lĩnh, rằng chúng tôi chỉ nghĩ đến những điều không thể làm được, thì chúng tôi sẽ chỉ mỉm cười im lặng. Nhưng hành động và suy nghĩ trong chúng tôi sẽ lên tiếng : Vâng! đúng vậy! có gì là sai nào?". - Ernesto Che Guevara, The CHE Handbook.
6 - San Martin De Los Andes - Cảm xúc miền đất lạ
Con đường bò ngoằn ngoèo như con rắn len lỏi giữa những chân đồi có vẻ như là đoạn bắt đầu của dãy Andes đồ sộ, rồi đổ dốc dẫn đến một thị trấn nghèo khổ, tiêu điều, vây quanh bởi những ngọn núi hùng vĩ, dày đặc những rừng cây. San Martin nằm ở sườn dốc xanh vàng khuất dần vào vùng hồ Lacar xanh thẳm, một vùng nước hẹp, rộng khoảng 35 mét và dài 500 kilômét. Khi những khó khăn về khí hậu và giao thông được giải quyết thì nơi này là trạm dừng chân của du khách, và thị trấn đã có thể tồn tại.

Cuộc tấn công đầu tiên của chúng tôi vào một dưỡng đường địa phương (để xin ở nhờ) đã hoàn toàn thất bại, nhưng chúng tôi quyết tâm duy trì chiến thuật đó với văn phòng Công viên Quốc gia. Người quản lý công viên cho phép chúng tôi được ở trong một nhà kho. Người gác đêm đến, một người mập mạp, to lớn ngoại lệ, cân nặng cỡ 140 kg, gương mặt chai cứng như đá. Nhưng ông ta lại đối xử với chúng tôi rất tử tế, cho phép chúng tôi nấu ăn trong túp lều của ông. Đêm thứ nhất trôi qua êm thắm. Chúng tôi ngủ trong nhà kho, trên nệm rơm ấm áp - một thứ cần thiết ở vùng này vì ban đêm trời rất lạnh. Chúng tôi mua một ít thịt bò rồi đi bộ dọc theo bờ hồ. Dưới bóng mát của những hàng cây to lớn, nơi mà vẻ hoang sơ đã ngăn bước tiến của nền văn minh, chúng tôi dự tính xây dựng một phòng thí nghiệm ở đây khi đã hoàn tất cuộc hành trình. Chúng tôi tưởng tượng những khung cửa sổ nhìn ra toàn cảnh hồ Lacar, tuyết mùa đông phủ trắng mặt đất. Chúng tôi sử dụng xuồng hơi để di chuyển từ nơi này đến nơi khác, đi bắt cá bằng một chiếc thuyền nhỏ, và có nhiều chuyến du khảo bất tận vào những khu rừng nguyên sinh. Mặc dù trong suốt chuyến đi chúng tôi thường ao ước được ở những nơi dữ dội, khủng khiếp, nhưng chỉ có rừng già Amazon mới hấp dẫn bản năng phiêu lưu mạo hiểm của chúng tôi một cách mạnh mẽ như nơi này.

Giờ đây tôi biết, gần như định mệnh đã an bài, và tôi không còn chọn lựa nào khác, rằng số phận của tôi là phải lãng du. Chính xác hơn là "số phận của chúng tôi" - vì Alberto cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên, có những lúc tôi tha thiết trông mong được đến những vùng đất tuyệt vời của miền nam nước tôi. Có lẽ vào một ngày nào đó, khi dừng chân phiêu bạt, tôi sẽ trở về Argentina và định cư tại vùng hồ Andean, nếu không ở lại vĩnh viễn thì cũng tạm dừng chân trong một thời gian. Khi chúng tôi trở lại thì trời đã tối. Thật là một điều ngạc nhiên thú vị khi thấy Don Pedro Olate, người gác đêm, đã chuẩn bị sẵn một bữa thịt nướng ngoài trời để đãi chúng tôi. Chúng tôi đi mua rượu vang để đáp lại cử chỉ nghĩa hiệp đó và chúng tôi đã ăn ngấu nghiến như sư tử. Bữa ăn thật khí thế. Chúng tôi trò chuyện về mùi vị của món thịt nướng, về việc đã từ lâu rồi chúng tôi không còn được ăn uống huy hoàng như khi còn ở nhà. Don Pedro bảo chúng tôi là người ta yêu cầu ông tổ chức tiệc ngoài trời cho những tay đua xe hơi tham dự giải tại địa phương vào Chủ nhật tới. Ông cần thêm hai người giúp việc và đề nghị chúng tôi làm. "Tôi không thể trả tiền cho các anh, nhưng bù lại, các anh có thể giữ lại nhiều thịt để dùng trên đường đi". Đó là một ý kiến hay và chúng tôi đã chấp nhận làm hai trợ lý cho "Bố già của buổi tiệc ngoài trời miền nam Argentina". Cả hai anh chàng trợ lý chỉ nóng lòng chờ đợi cho đến ngày Chủ Nhật. Và sáu giờ sáng hôm ấy, chúng tôi bắt đầu công việc đầu tiên - chất củi lên xe tải và mang đến nơi tổ chức tiệc - chúng tôi làm việc không nghỉ cho đến 11 giờ. Khi nhận được hiệu lệnh nghỉ trưa, mọi người lao đến ăn ngấu nghiến món sườn nướng.

Một người rất kỳ lạ điều hành mọi chuyện ở đây. Người mà khi nói chuyện, tôi thường gọi "Senora(1)" một cách cung kính. Cho đến khi một người cùng làm nhắc nhở, "Này nhóc! Đừng đi quá xa như thế với Don Pendon, ông ta sẽ nổi giận ngay bây giờ đấy!". "Ai là Don Pendon vậy hả?" Tôi hỏi bằng giọng điệu và cử chỉ như đứa trẻ không mấy có văn hóa. Câu trả lời Don Pendon chính là người nãy giờ tôi gọi là "Senora" làm tôi thấy hơi lạnh người, nhưng cảm giác đó không kéo dài bao lâu. Tại các buổi tiệc ngoài trời, lúc nào cũng có rượu thịt ê hề, và chúng tôi được ăn uống thoải mái. Hơn thế nữa, chúng tôi còn có một kế hoạch được chuẩn bị công phu. Tôi giả vờ say và loạng choạng bước ra bờ suối, giấu trong áo được một chai rượu vang đỏ cực ngon. Sau năm lần say như thế, chúng tôi đã có được mấy chai rượu vang giấu dưới nước cạnh gốc liễu. Khi bữa tiệc kết thúc, công việc của chúng tôi là phải dọn dẹp mọi thứ để chất lên xe tải rồi cùng về thị trấn với mọi người. Nhưng tôi giả vờ làm việc miễn cưỡng và cãi nhau liên tục với Don Pendon. Cuối cùng tôi nằm dài trên bãi cỏ, giả bộ say và không chịu làm gì cả. Alberto trong vai một người bạn thân, đến xin lỗi ông chủ và ở lại chăm sóc tôi khi chiếc xe tải lăn bánh. Khi tiếng động cơ xe tải xa dần, chúng tôi nhảy cẫng lên và chạy như bay đến chỗ giấu mấy chai rượu vang, gia tài mới có được, với hy vọng chúng tôi có thể nhâm nhi trong nhiều ngày lang thang.

Alberto lao mình tới cây liễu trước tiên: mặt anh trông thiểu não như một diễn viên hài. Một thực tế quá phũ phàng không thể tin được: Không còn một chai rượu nào ở chỗ đó nữa cả. Thế là toi bao công sức và toi cả ước mơ. Hoặc là tôi đóng kịch quá tồi - ai đó đã thấy tôi đánh cắp mấy chai rượu vang, hoặc là đã có một "cao thủ võ lâm" có hành tung và mục đích giống chúng tôi. Thế là lại rỗng túi như cũ. Chúng tôi cố hình dung lại lúc ấy và thấy chắc là người ta đã cười trước trò say xỉn của tôi. Rồi chúng tôi cố tìm xem có điểm nào cho thấy là chúng tôi ăn trộm hay không. Nhưng điều đó cũng chẳng có ích lợi gì. Ân hận cũng vô nghĩa! Đành lôi theo thùng bánh mì phô mai và túi thịt, chúng tôi phải cuốc bộ trở lại thị trấn. Dù được cho ăn uống miễn phí no nê nhưng chúng tôi cảm thấy rất xấu hổ, không phải vì chuyện mấy chai rượu vang mà vì người ta đã cho chúng tôi là hai thằng ngốc. Cảm giác này thật vô cùng khó tả. Nếu trót lọt chắc cảm giác sẽ khác hẳn. Phải chấp nhận quy luật cuộc chơi vậy!

Ngày hôm sau trời mưa và lạnh, và chúng tôi nghĩ cuộc đua sẽ không thể tiến hành được. Chúng tôi đang chờ được nghỉ giải lao để ra bờ hồ nấu nướng thì trên loa phóng thanh người ta nói cuộc đua vẫn tiếp tục. Là người phục vụ tiệc ngoài trời, chúng tôi được vào cổng miễn phí để xem các tay đua của quốc gia thi đấu trong một cuộc đua được tổ chức khá tốt. Ngay khi chúng tôi nghĩ đến việc đi tiếp, bàn bạc phải chọn tuyến đường nào, thì một chiếc xe jeep chở đầy bạn của Alberto đến. Họ đến từ ngôi làng huyền thoại xa xăm Conception del Tio. Chúng tôi ôm chặt nhau thắm thiết và sau đó là đổ đầy bao tử với những chất lỏng biết sủi bọt. Họ mời chúng tôi đến thăm nơi họ làm việc tại thị trấn Junin de los Andes. Thế là chúng tôi lại lên đường, giảm tải cho chiếc môtô bằng cách để đồ đạc lại nhà kho trong Công viên Quốc gia.
7 - Núi non mạo hiểm
Junin de los Andes, kém may mắn hơn người anh em bên bờ hồ của nó, tồn tại một cách vô vị trong một góc bị lãng quên của nền văn minh, không thể thoát khỏi sự đơn điệu của một cuộc sống buồn chán, mặc dù người ta đã cố gắng tiếp thêm sinh khí cho nó bằng cách xây dựng một doanh trại ở nơi bạn bè của chúng tôi đang làm việc. Tôi nói "bạn bè của chúng tôi" bởi vì chẳng bao lâu sau thì các bạn của Alberto cũng là bạn của tôi. Chúng tôi dành đêm đầu tiên để tưởng nhớ đến quá khứ xa xôi ở Villa Conception, tâm tình chúng tôi trào dâng theo những dòng rượu vang chừng như bất tận. Không có rượu ăn cắp thì cũng có rượu của bạn. Tửu lượng của tôi không cao, do đó tôi phải bỏ cuộc sớm và ngủ như chết. Cả ngày hôm sau chúng tôi sửa chữa chiếc môtô tại xưởng máy của công ty nơi bạn chúng tôi làm việc. Đêm hôm đó họ tổ chức một tiệc chia tay linh đình theo kiểu Argentina: Tiệc ngoài trời với thịt bò và thịt cừu, bánh mì và rau trộn. Sau vài ngày tiệc tùng, chúng tôi lại lên đường sau nhiều vòng tay tạm biệt siết chặt. Chúng tôi hướng đến Carrue, một vùng hồ khác trong khu vực. Đường đi thật là khủng khiếp và chiếc xe đáng thương của chúng tôi lại lê lết trong cát khi tôi cố giúp nó ra khỏi những cồn cát. Chúng tôi vượt 5 km đầu trong một tiếng rưỡi, nhưng sau đó con đường trở nên tốt hơn và chúng tôi đến Carrue Chico, một hồ nhỏ, nước xanh, xung quanh là rừng cây hoang dã và những ngọn đồi trùng điệp. Sau đó chúng tôi đến Carrue Grande, một vùng hồ rộng lớn hơn nhưng buồn một điều là chúng tôi không thể chạy môtô quanh hồ bởi vì chỉ có một con đường duy nhất mà bọn buôn lậu địa phương sử dụng để vượt qua Chilê. Không thấy người bảo vệ công viên ở đâu, chúng tôi để xe tại chòi bảo vệ và leo lên đỉnh đồi đối diện với hồ. Lúc đó gần đến giờ ăn trưa và khẩu phần của chúng tôi chỉ là một mẩu phô mai và một ít thức ăn dự trữ. Một con vịt bay ngang qua hồ. Alberto tính toán khoảng cách, thời gian vắng mặt của người bảo vệ, cả khả năng bị phạt... và đùng! Chính xác! Thật là may mắn, con vịt rơi xuống hồ. Alberto và tôi bắt thăm xem ai phải đi lấy con vịt. Tôi thua và tôi phải lao xuống hồ. Hình như những ngón tay băng giá đang giữ chặt lấy thân thể tôi, cản trở mọi cử động. Tôi bị dị ứng với cái lạnh, cho nên bơi gần 20 mét để nhặt con vịt và bơi trở về đối với tôi là một cực hình. Cuối cùng, thật là tuyệt vời khi được ăn vịt quay trong cơn đói. Chúng tôi nhìn nhau như chia sẻ: không liều thì sẽ chẳng được gì.
Bữa ăn trưa như tiếp thêm sức mạnh, chúng tôi hăng hái leo núi. Tuy nhiên, ngay từ lúc bắt đầu đã có những đàn ruồi to làm bạn đồng hành. Chúng bay không ngừng nghỉ và đốt cả chúng tôi khi có cơ hội. Leo núi thật là khổ sở vì chúng tôi không có kinh nghiệm và thiết bị chuyên dụng; nhưng sau vài giờ vất vả, chúng tôi cũng leo được đến đỉnh. Thật là thất vọng khi chẳng có cảnh tượng nào ngoạn mục để chiêm ngưỡng: những ngọn núi lân cận đã che chắn tất cả. Nhìn hướng nào cũng có một đỉnh núi cao hơn cản trở. Sau vài phút nói chuyện tếu về đốm tuyết trên đỉnh núi, chúng tôi bắt đầu xuống núi vì sợ trời tối. Đoạn đường đầu thì dễ dàng, nhưng con suối dẫn đường lại biến thành thác lũ với những khối đá dốc đứng và trơn trợt rất khó đi qua. Chúng tôi phải bám theo mấy cây liễu mà đi, cuối cùng cũng đến một vùng cỏ tranh rậm rạp. Màn đêm buông xuống mang theo hàng ngàn tiếng động kỳ lạ và cảm giác căng thẳng với từng bước chân bước vào vùng không gian trống vắng. Alberto bị mất cặp kính bảo hộ, còn quần của tôi thì rách nát. Cuối cùng chúng tôi đến một hàng cây và từ đó chúng tôi bước từng bước rất thận trọng, bởi vì bóng tối dày đặc và giác quan thứ sáu tăng cường cao độ đến nỗi mỗi giây, mỗi chuyển động, chúng tôi đều cảm thấy như phía trước là vực thẳm. Sau một cuộc hành trình vất vả lội qua bùn sâu, chúng tôi phát hiện ra con suối chảy ra Carrue, cây cối hầu như biến mất và chúng tôi đã xuống đến mặt đất. Một con hươu to lớn bất ngờ xuất hiện, phóng nhanh như một mũi tên qua con suối, thân hình của nó lấp lánh dưới ánh trăng rồi mất hút vào tàng cây thấp. Sự cố bất ngờ này làm chúng tôi hơi hoảng hốt. Chúng tôi bước chầm chậm để không làm khuấy động vẻ thanh bình và thiêng liêng của thiên nhiên hoang dã. Chúng tôi lội qua một vũng nước, dòng nước chạm vào mắt cá chân làm tôi nhớ đến những ngón tay băng giá mà tôi rất ghét. Cuối cùng, chúng tôi cũng về đến chòi của nhân viên bảo vệ công viên. Người bảo vệ rất tốt khi cho chúng tôi uống trà thảo dược nóng và cho mượn tấm da cừu để chúng tôi ngủ cho đến giữa trưa hôm sau.

Chúng tôi chạy xe chầm chậm trở về, ngang qua những chiếc hồ mà vẻ đẹp có thể so sánh với Carrue, và cuối cùng đến San Martin, nơi Don Pendon đã cho tôi 10 pêsô tiền phục vụ tiệc ngoài trời. Sau đó, chúng tôi tiếp tục đi về hướng nam. "Sau những kỳ thi tháng 12, thay vì ở lại thủ đô để ôn bài cho kỳ thi tháng 3 anh thu xếp ba lô, leo lên chiếc xe gắn máy - hoặc có đôi khi chỉ đi bộ - Và lang thang khắp mọi miền đất nước." Alberto Granado, Hồi tưởng về người bạn thời niên thiếu.
8 - Nhớ mẹ
Tháng Giêng 1952

Trên đường đến Bariloche Mẹ kính yêu, Mẹ chưa nhận được tin tức gì về con, và con cũng chưa nhận được tin gì về mẹ. Con lo lắm! Vì vậy con viết những hàng này để kể cho mẹ những gì đã xảy ra cho chúng con. Hai ngày sau khi rời Bahia Blanca, con bị sốt cao đến 40 độ và phải nằm bẹp trên giường cả ngày. Sáng hôm sau con gắng gượng ngồi dậy và đến bệnh viện khu vực Choele Choel. Tại đây họ đã cho con một liều Penicillin, và con hồi phục bốn ngày sau đó...

Chúng con đến San Martin de los Andes, dùng tài xoay xở vốn có của mình để giải quyết muôn vàn chuyện rắc rối, phiền toái trên đường. San Martin de los Andes có một cái hồ tuyệt đẹp nằm giữa khu rừng nguyên sinh, rất đáng để mẹ tham quan. Trên đường đi chúng con thấy nhà nào cũng có vườn. Chúng con tìm thức ăn, chỗ trọ và bất cứ điều gì khác mà người ta có thể giúp đỡ. Chúng con dừng lại trang trại Von Putnamers. Họ là bạn của Jorge, đặc biệt là một người theo phái Peronist, luôn luôn say xỉn, và là người tốt nhất trong ba người bạn ở đây. Bây giờ con có thể chẩn đoán được bệnh bướu não. Chúng con phải chờ để xem căn bệnh tiến triển ra sao. Trong hai hoặc ba ngày nữa chúng con sẽ đến Bariloche và dự tính sẽ di chuyển với tốc độ vừa phải. Hãy gởi thư cho con nếu như thư có thể đến trước ngày 10 hoặc 12 tháng Hai. Mẹ ơi, trang kế tiếp con sẽ viết cho Chichina. Cho con gởi tình yêu đến tất cả mọi người và hãy cho con biết cha có ở miền Nam hay không.

Con ôm mẹ với muôn vàn yêu thương.

Con trai của mẹ.
9 - Đường Seven Lakes, con báo và phát súng...
Chúng tôi quyết định đến Bariloche bằng đường Seven Lakes. Con đường được đặt tên theo bảy cái hồ mà nó uốn quanh trước khi đến thị trấn. Vài kilômét đầu chúng tôi chạy với tốc độ vừa phải của chiếc La Poderosa mà không gặp bất cứ trục trặc lớn nào. Trời đã chạng vạng tối mà không biết phải ngủ nơi đâu, chúng tôi bèn nghĩ ra cách ngắt điện của cái đèn xe phía trước vốn đã bị vỡ một mảnh để có cớ xin ngủ nhờ trong lều của một công nhân làm đường. Đó là một mưu mẹo hữu ích bởi vì đêm đó trời lạnh thấu xương. Trời buốt giá đến nỗi có một người đến xin mượn mấy tấm chăn vì vợ chồng ông ta đang cắm trại ở ven hồ và đang bị lạnh cóng. Chúng tôi chia sẻ phần trà thảo dược cho con người giỏi chịu đựng này - vợ chồng họ sống cạnh bờ hồ chỉ với một cái lều và những vật dụng gói gọn trong ba lô. Họ làm chúng tôi cảm thấy xấu hổ. Chúng tôi lại lên đường, vượt qua vô số hồ nước lớn nhỏ được vây bọc trong khu rừng già. Hương thơm của thiên nhiên hoang dã phảng phất. Nếu chỉ nhìn thoáng qua bên ngoài: hồ nước, khu rừng, một căn nhà đơn độc với một khu vườn... thì bạn sẽ chẳng bao giờ có thể cảm nhận được hết vẻ sâu lắng của một nơi mà lẽ ra bạn phải dừng lại trong nhiều ngày để khám phá.

Cuối cùng chúng tôi đến bờ phía bắc của hồ Nahuel Huapi và ngủ trên bờ hồ, no nê và thỏa mãn sau một bữa tiệc ngoài trời thịnh soạn. Nhưng khi chúng tôi lên đường, bánh sau xe lại bị thủng một lỗ và từ đó là một cuộc vật lộn chán ngắt với chiếc xe khốn khổ. Khi vá xong lỗ này thì nó thủng lỗ kia, cho đến khi chúng tôi không còn một miếng vá nào và đành phải chịu trận ngủ qua đêm trên đường. Một quản gia người Áo thời trẻ từng là tay đua môtô đã cho chúng tôi tạm trú trong một nhà kho - ông ta vừa muốn giúp chúng tôi lại dường như vừa sợ ông chủ. Bằng giọng Tây Ban Nha đứt quãng, ông bảo chúng tôi rằng một con báo sư tử đang xuất hiện trong vùng. "Báo sư tử rất dữ tợn, chúng không ngại tấn công con người! Chúng có bờm màu vàng thật lớn..." Khi đóng cửa, chúng tôi thấy rằng nó giống như một cái cửa chuồng ngựa - cánh cửa chỉ còn có một nửa phần chắn bên dưới. Hình bóng của con báo sư tử lởn vởn trong đầu tôi. Tôi đặt khẩu súng lục bên đầu nằm, phòng khi nửa đêm nó viếng thăm bất ngờ. Tôi thức dậy lúc tờ mờ sáng khi có tiếng móng vuốt cào sột soạt ngoài cửa. Alberto nằm bên cạnh tôi chết lặng vì sợ hãi. Tôi để tay vào cò súng. Hai con mắt sáng rực như mắt mèo trong bóng tối nhìn chằm chằm vào tôi. Hai đốm sáng đó lao tới phía trước và thân hình đen ngòm đồ sộ của nó nhảy qua cửa. Một cảm giác lạnh chạy dọc xương sống. Phản xạ theo bản năng, tôi bóp cò. Tiếng súng vang dội khắp các bức tường cho đến khi có một bó đuốc sáng rực trước cửa phòng kèm theo tiếng la thét trong tuyệt vọng của viên quản gia. Và bà vợ của ông, trong cơn hốt hoảng tột độ, đang ôm lấy xác con chó Bobby bẩn thỉu và khó ưa của vợ chồng bà. Và chúng tôi "được mời" đi ngay lập tức sau một trận chửi rủa. Alberto mang bánh xe đến Angostura để tìm chỗ vá. Tôi nghĩ rằng mình phải ngủ qua đêm ở ngoài trời - bởi khó mà tìm một nhà nào cho ngủ nhờ khi chúng tôi bị xem như những "kẻ giết người". May mắn thay, tôi tìm thấy túp lều của một công nhân sửa đường và ông ta cho tôi ngủ trong nhà bếp cùng với một người bạn của ông. Tiếng mưa rơi làm tôi thức giấc vào lúc nửa đêm và tôi định bước ra lấy tấm bạt để trùm xe lại. Nhưng trước khi ngồi dậy, tôi quyết định làm vài hơi thuốc suyễn do bị dị ứng với tấm da cừu. Khi tôi đang dùng bình xịt thuốc thì người bạn nằm chung thức giấc. Hắn đột ngột cử động rồi lại nằm yên. Tôi cảm thấy người hắn cứng lại dưới tấm chăn như đang thủ một con dao và hắn gần như nín thở. Nhưng với kinh nghiệm vẫn còn nóng hổi của đêm trước, tôi quyết định nằm yên quan sát nhưng vẫn lo vì sợ bị đâm bất ngờ.

Ngày hôm sau, chúng tôi đến San Carlos de Bariloche trước khi trời tối và nghỉ qua đêm tại một đồn cảnh sát, chờ con tàu Modesta Victoria để đến biên giới Chilê.
10 - Tung cánh tự do...
Chúng tôi đang ẩn tránh cơn bão cuồng nộ bên ngoài trong nhà bếp của trạm cảnh sát. Tôi đọc đi đọc lại lá thư. Và trong thư đó, tất cả những giấc mơ của tôi về quê nhà cùng với đôi mắt tiễn biệt ở Miramar chợt hiện lên rồi lại nhạt nhòa. Tôi như muốn kiệt sức, nửa mê nửa tỉnh. Trong lúc mơ màng, tôi nghe câu chuyện sống động của một gã tù nhân phiêu bạt khắp nơi. Hắn bịa ra hàng ngàn câu chuyện hấp dẫn trước sự dốt nát của những người bu quanh. Tôi có thể hình dung ra hắn đang hào hứng kể chuyện bằng những ngôn từ lôi cuốn trong khi những khuôn mặt xung quanh hắn càng nhích lại gần hơn để nghe cho rõ. Và như thể đang nhìn trong sương mù, tôi thấy vị bác sĩ người Mỹ mà tôi đã gặp ở Bariloche đang gật đầu: " Tôi nghĩ anh biết anh phải đi đến đâu. Anh có lòng can đảm và nghị lực. Nhưng anh nên ở lại Mexico một thời gian. Đó là một đất nước tuyệt vời." Đột nhiên tôi thấy tôi đang bay cùng người thủy thủ đến những vùng đất xa xăm, xa khỏi bi kịch hiện thời của cuộc đời tôi. Một cảm giác băn khoăn tràn ngập tâm hồn, tôi thấy mình không còn cảm nhận được gì cả. Tôi bắt đầu cảm thấy sợ hãi chính bản thân mình. Tôi bắt đầu viết một lá thư đẫm nước mắt, nhưng lại không thể viết được. Tôi đã cố gắng viết trong vô vọng. Trong ánh sáng lờ mờ xung quanh, những ảo ảnh chập chờn ẩn hiện, nhưng "em" không xuất hiện. Tôi vẫn tin rằng tôi còn yêu em cho đến giờ phút ấy, khi tôi biết rằng tôi chẳng còn gì hết. Tôi tập trung gọi em trở lại trong tâm trí. Tôi phải đấu tranh để giữ hình ảnh đó. Vì tôi. Vì em! Em là của tôi, của tôi... Không có hình ảnh em cuộc sống sẽ mất đi rất nhiều ý nghĩa. Cho dù sau này em có thế nào đi nữa... Và tôi ngủ thiếp đi. Mặt trời dịu êm chiếu sáng một ngày mới, ngày chúng tôi ra đi, giã từ vùng đất Argentina. Mang chiếc xe đáng thương đến tàu Modesta Victoria không phải là chuyện dễ dàng chút nào, nhưng với tất cả sức lực và lòng kiên nhẫn, cuối cùng chúng tôi cũng làm được. Xuống tàu cũng khó khăn không kém. Rồi chúng tôi có mặt tại một nơi nhỏ bé bên bờ hồ có cái tên hoa mỹ là Puerto Blest. Chúng tôi di chuyển vài ba kilômét bằng đường bộ, rồi sau đó bằng đường thủy, trên dòng Frias nước xanh dơ bẩn. Chúng tôi phải thực hiện một cuộc hành trình ngắn trước khi đến trạm hải quan, rồi đến trạm quản lý di trú Chilê ở phía bên kia dãy núi. Ở đó chúng tôi lại băng qua một cái hồ nữa do nước của sông Tronador đổ vào. Sông Tronador bắt nguồn từ một núi lửa hùng vĩ cùng tên. Hồ Esmeralda, hoàn toàn tương phản với những cái hồ ở Argentina, nước trong tuyệt vời như mời gọi người ta xuống tắm thỏa thích. Trên dãy núi tại một nơi có tên là Casa Pangue có một đồn biên phòng, từ đây có thể nhìn toàn cảnh một dải đất nước Chilê xinh đẹp. Đối với tôi đây là một giao lộ: tôi đang nhìn tới tương lai qua dải đất hẹp của Chilê và nhìn tới những gì còn nằm ở phía trước, những dòng thơ của Otero Silva hiện lên trong tâm trí.
11 - Có một con đường...
Nước len vào từ những lỗ rò rỉ của chiếc thuyền cồng kềnh, cũ kỹ đang chở chiếc môtô của chúng tôi. Những giấc mơ ban ngày đã kéo tôi ra khỏi thực tại mặc dù tôi vẫn còn hì hục với máy bơm để bơm nước ra khỏi thuyền. Một bác sĩ từ Peulla trở về trên chiếc tàu chở hành khách Esmeralda, đã chạy ngang qua chiếc thuyền có cột chiếc môtô của chúng tôi. Ông ta kinh ngạc nhìn chúng tôi trần trụi, bì bõm trong vùng nước loang lổ dầu, vật lộn đổ mồ hôi với chiếc thuyền sao cho nó đừng chìm.

Chúng tôi đã gặp nhiều bác sĩ qua đây. Họ có những bài giảng về bệnh phong, thêm thắt đôi chút, tạo sự ngưỡng mộ với đồng nghiệp của chúng tôi từ bên kia dãy Andes. Họ đã tạo ấn tượng bởi vì bệnh phong không phải là một vấn đề ở Chilê. Thậm chí họ cũng không có những kiến thức cơ bản về bệnh phong và thành thật nhìn nhận rằng có thể họ chưa từng bao giờ tiếp xúc với một người mắc bệnh phong. Họ nói với tôi về khu vực dành cho người mắc bệnh phong trên đảo Easter. Họ nói đó là một hòn đảo rất lý thú, và thế là niềm đam mê y học của chúng tôi đã được đánh thức. Vị bác sĩ này đã rất hào phóng giúp đỡ, làm cho chuyến đi của chúng tôi thêm phần thích thú. Nhưng trong những ngày vui ở miền nam Chilê, khi bụng chúng tôi vẫn còn no nê, khi chúng tôi vẫn còn giữ nguyên lòng tự trọng, đơn giản chúng tôi chỉ yêu cầu ông giới thiệu chúng tôi với chủ tịch hội “Những người bạn của đảo Easter” đang sống tại Valparaiso gần đó. Tất nhiên là ông ta rất vui vẻ nhận lời.

Con đường dọc theo hồ dừng lại ở Petrohue, nơi chúng tôi từ biệt mọi người. Trước đó chúng tôi đã chụp một số ảnh với các cô gái da đen người Brazil, các cô sẽ để hình chúng tôi vào album lưu niệm ở miền nam Chilê. Chúng tôi cũng chụp hình với hai vợ chồng nhà môi trường học biết rất rõ về các quốc gia châu Âu. Họ cũng đã trang trọng ghi lại địa chỉ chúng tôi để gởi ảnh sau này. Một người ở tỉnh nhỏ đề nghị chúng tôi đi bằng xe lửa đến Osorno. Alberto đã lên lớp một bài thật nhanh cho tôi về sự chán ngắt khi đi xe lửa và tôi đã quyết định vẫn di chuyển bằng phương tiện riêng của mình. Như những nhân vật trong phim hoạt hình, tôi nhảy lên yên sau xe Alberto và thế là chúng tôi lại lên đường. Mẹ ơi, mỗi một góc đường là một nỗi khổ ải: thắng, giật, té ngã, nhờ giúp đỡ... Con đường uốn lượn qua miền đồng quê tươi đẹp, uốn quanh hồ Osorno và ngọn núi lửa cùng tên như một người lính gác đang ở phía trên cao. Tôi đã không có may mắn tìm được chỗ dừng chân trên con đường khó đi này để thưởng thức hết vẻ đẹp của thiên nhiên. Tai nạn đáng kể nhất xảy ra do một con lợn nhỏ băng ngang phía trước một chiếc xe hơi trong khi chúng tôi đang đổ dốc và tôi chưa kịp hoàn hồn để bóp thắng xe.

Chúng tôi đến Osorno, chạy vòng quanh hồ, rồi lại tiếp tục theo hướng bắc qua miền đồng quê màu mỡ, phì nhiêu của Chilê. Đồng lúa được chia thành lô để canh tác, hoàn toàn tương phản với vùng đất phía nam cằn cỗi của chúng tôi. Người dân Chilê rất thân thiện, nồng nhiệt chào đón ở bất cứ nơi nào chúng tôi đến. Cuối cùng chúng tôi đến thành phố cảng Valdivia vào Chủ Nhật. Thả bộ quanh thành phố, chúng tôi ghé thăm tòa soạn của tờ báo địa phương Correo de Valdivia, và họ đã cử phóng viên viết một bài thật ấn tượng về cuộc hành trình của chúng tôi. Valdivia đang kỷ niệm bốn trăm năm ngày thành lập và chúng tôi đã tặng cuộc hành trình của mình cho thành phố, cho người Tây Ban Nha sáng lập mà thành phố được vinh dự mang tên. Họ khuyên chúng tôi viết thư cho Molinas Luco, thị trưởng của Valparaiso, về việc đến thăm đảo Easter.

Hải cảng tràn ngập những hàng hóa hoàn toàn xa lạ với chúng tôi. Chợ búa với nhiều loại thức ăn, những căn nhà gỗ kiểu Chilê, quần áo đặc biệt của dân guasos(1) khác xa với những gì chúng tôi biết tại quê nhà. Có một cái gì đó thuần túy Nam Mỹ, không bị ảnh hưởng ngoại lai như miền đồng cỏ ở xứ sở chúng tôi. Có lẽ bởi vì những người Anglo-Saxon di trú tại Chilê không bị pha tạp, vì vậy họ vẫn giữ được tính thuần khiết của bản sắc dân tộc, mà điều này không tồn tại ở đất nước chúng tôi. Ngoại trừ những khác biệt về ngôn ngữ và tập quán phân biệt chúng tôi với những người anh em cao gầy vùng Andean, thì có một tiếng nói chung: "Cho họ uống nước đi", đó là lời chào mỗi khi thấy bóng dáng cái quần da bò của tôi. Chẳng phải tôi thích quần da bò, nhưng đó là thời trang tôi thừa hưởng được từ lòng quảng đại của một người bạn.

"Nếu có điều gì làm chúng tôi đau buồn chính là những gì chúng tôi đã tận mắt chứng kiến. Cũng như rất nhiều nơi trên đất nước Argentina thân thương của chúng tôi, cần phải có thay đổi triệt để về chính trị - Xã hội để chấm dứt cảnh người bóc lột người và các tập đoàn quốc tế bóc lột đất nước chúng tôi." - Alberto Granado, Hành trình cùng Che Guevara.
12 - Trở thành chuyên gia bệnh phong
Tôi không bao giờ cảm thấy chán khi nói về lòng hiếu khách của người dân Chilê. Tấm lòng hiếu khách đó đã làm cuộc hành trình của chúng tôi đến Chilê trở nên kỳ thú. Và chúng tôi đã tận dụng hết những thuận lợi đó. Tôi từ từ thức giấc bên trong tấm chăn, ước lượng giá trị của cái giường và tính toán hàm lượng calori của bữa ăn đêm hôm trước. Tôi nhớ lại các biến cố gần đây: chiếc La Poderosa bị bể bánh thật nguy hiểm, làm chúng tôi phải chịu trận trong cơn mưa giữa cánh đồng trống; sự giúp đỡ hào phóng của Raul, chủ cái giường mà chúng tôi đang nằm; và cuộc phỏng vấn của tờ báo El Austral tại Temuco. Raul là một sinh viên ngành thú y khá siêng năng. Anh đã giúp chúng tôi nâng chiếc xe môtô tội nghiệp lên xe tải rồi chở chúng tôi đến một thị trấn yên tĩnh ở miền trung Chilê. Thành thật mà nói, có lẽ đôi khi người bạn của chúng tôi ước gì anh ta đừng gặp chúng tôi, bởi vì chúng tôi đã làm giấc ngủ đêm của anh ta chẳng ngon lành gì, nhưng anh lại luôn nhận lỗi về phần mình. Raul huyên thuyên kể về những món tiền đã tiêu tốn vì phụ nữ và mời chúng tôi một đêm viếng thăm vũ trường. Lời mời này là lý do chúng tôi kéo dài thêm thời gian lưu lại vùng đất của Pablo Neruda. Thế nhưng vào phút chót anh ta lại nói là không còn tiền và phải hoãn chuyến đi đến chốn ăn chơi đó. Bù lại, anh ta lo cho chúng tôi chỗ ăn ở. Thế là vào một giờ sáng, chúng tôi đã có một chỗ trọ, cảm thấy hài lòng với chính mình và ăn ngấu nghiến những gì có trên bàn. Thức ăn thật nhiều, chưa kể những món đem đến kế tiếp. Rồi chúng tôi chiếm lĩnh cái giường của ông chủ nhà vì cha anh ta đã chuyển đến Santiago và trong nhà không còn nhiều đồ đạc lắm.

Trong khi tôi đang thay đồ thì Alberto còn nằm ườn trên giường, kháng cự lại những tia nắng mặt trời đang quấy rầy giấc ngủ say của anh. Việc thay đồ cũng khá giản đơn vì sự khác biệt giữa bộ đồ ngủ và đồ mặc ban ngày của tôi chỉ là đôi giày mà thôi. Tờ báo địa phương có nhiều trang thật đẹp, hoàn toàn trái ngược với những tờ nhật báo nghèo nàn tại đất nước chúng tôi, nhưng tôi không quan tâm đến điều gì khác ngoài một mẩu tin địa phương với hàng tít lớn:

HÀNH TRÌNH XUYÊN CHÂU MỸ LA TINH BẰNG MÔ TÔ CỦA HAI CHUYÊN GIA BỆNH PHONG NGƯỜI ARGENTINA

Rồi in nhỏ hơn: HAI CHUYÊN GIA ĐANG Ở TEMUCO VÀ MUỐN THĂM RAPA-NUI (1)

Đây là bản tóm tắt về tài năng của chúng tôi. Chúng tôi, những chuyên gia, cây đại thụ về bệnh phong tại châu Mỹ, với nhiều kinh nghiệm, đã điều trị hơn 3.000 bệnh nhân, quen thuộc với hầu hết trung tâm bệnh phong trên khắp châu lục và là những nhà nghiên cứu về điều kiện vệ sinh thuộc những trung tâm đó, đã đồng ý viếng thăm thị trấn nhỏ bé, xinh đẹp và sầu mộng này. Chúng tôi nghĩ rằng họ sẽ đánh giá cao sự trân trọng của chúng tôi đối với thị trấn, nhưng thực sự không ngờ là đến mức đó. Chẳng bao lâu cả gia đình bu quanh bài báo, và những bài báo khác trở thành cỏ rác. Và vì thế, trong sự ngưỡng mộ của họ, chúng tôi đã nói lời từ biệt với những người mà chúng tôi không biết gì về họ, ngay cả cái tên cũng không biết.

Chúng tôi xin phép để xe môtô trong garage của một người sống ở ngoại ô thị trấn. Và thế là chúng tôi không còn là hai gã lang thang đáng thương rong ruổi trên môtô nữa; mà bây giờ chúng tôi là "chuyên gia", được đối xử trân trọng. Chúng tôi bỏ cả ngày để sửa xe trong khi thỉnh thoảng có một cô giúp việc người da màu mang thức ăn nhanh đến. Vào lúc năm giờ chiều, sau một bữa trà ngon do ông chủ chiêu đãi, chúng tôi tạm biệt Temuco và tiếp tục hướng về phía bắc.

"CHE biết đau với những nỗi đau của con người - Dù những người đó không hề thân thuộc hay là đồng bào của anh, với CHE - Tình người là không biên giới. Anh căm ghét sự áp bức và bất công khắp nơi trên thế giới Fidel Castro (nói về Che).
13 - Thử thách nối tiếp thử thách
Cuộc hành trình từ Temuco vẫn bình thường cho đến khi ra khỏi thị trấn thì bánh xe sau lại bị thủng và chúng tôi phải dừng lại để thay bánh.
Chúng tôi làm việc khá vất vả, nhưng đến khi lắp cái bánh dự phòng vào thì chúng tôi phát hiện nó cũng bị xì hơi. Có lẽ chúng tôi phải ngủ qua đêm ở ngoài trời vì ai mà vá xe vào lúc đêm tối thế này.
Nhưng chúng tôi không phải là những người dân thường, chúng tôi là "chuyên gia". Và chẳng bao lâu sau, chúng tôi tìm được một công nhân hỏa xa. Anh ta đưa chúng tôi về nhà và tiếp đãi chúng tôi thật chân tình như người thân.
Sáng sớm hôm sau chúng tôi mang vỏ ruột xe ra garage để vá lại. Chúng tôi lại lên đường khi trời gần tối sau khi được đãi một bữa ăn thuần túy Chilê: dạ dày bò và những món làm từ lòng bò, tất cả đều nhiều gia vị, cùng với rượu vang thật ngon. Một lần nữa, lòng hiếu khách của nhân dân Chilê đã chiếm trọn vẹn cảm tình của chúng tôi.
Tất nhiên chúng tôi không thể chạy xa hơn được. Chưa được 80 km thì trời tối hẳn và chúng tôi phải dừng lại ngủ trong nhà một người bảo vệ công viên. Ông này cho chúng tôi trọ với hy vọng kiếm được một ít tiền. Nhưng vì sau đó nhận ra rằng chúng tôi không có tiền, dù chỉ là tiền boa, ông ta bèn không đãi chúng tôi ăn sáng như dự định nữa. Vượt qua tâm trạng không mấy thoải mái, chúng tôi lại lên đường, dự tính đốt lửa pha trà thảo dược uống thay ăn sáng khi chạy được vài kilômét. Chạy được một quãng, và trong khi tôi đang tìm một chỗ để dừng lại thì chiếc mô tô giật nẩy lên và hất tung chúng tôi lên không. Cũng may Alberto và tôi không bị thương. Cổ xe bị gãy và tệ hại hơn hết là hộp số đã bị vỡ. Không thể tiếp tục cuộc hành trình. Điều duy nhất phải làm là kiên nhẫn chờ một chiếc xe tải mang chúng tôi đến thị trấn kế tiếp.
Một chiếc xe hơi ngừng lại. Những người trên xe ào ra để xem chuyện gì đã xảy ra và tìm cách giúp đỡ. Họ nói họ sẵn sàng giúp đỡ bất cứ điều gì mà những nhà khoa học như chúng tôi cần đến.
"Chúng tôi đã thấy hình các anh trên báo và nhận ra các anh từ xa," một người nói.
Nhưng chúng tôi không yêu cầu họ điều gì, ngoại trừ một chiếc xe tải có thể chở chúng tôi đi tiếp. Chúng tôi cám ơn họ và bắt đầu uống trà khi người chủ của túp lều gần đó đến mời chúng tôi về nhà. Chúng tôi uống cạn hai lít rượu vang trong nhà bếp. Ở đó, chúng tôi thấy chiếc đàn charango, một loại đàn có bốn dây căng qua hai cái hộp thiếc gắn vào thùng đàn. Người nhạc sĩ dùng một miếng phím gảy vào dây tạo ra những âm thanh như tiếng đàn guitar đồ chơi trẻ em. Khoảng 12 giờ, một chiếc xe tải chạy ngang qua. Chúng tôi năn nỉ một hồi, cuối cùng người tài xế cũng đồng ý chở chúng tôi đến thị trấn Lautaro kế tiếp.
Chúng tôi tìm được một chỗ trong một garage tốt nhất thị trấn và một người có thể hàn và sửa chiếc mô tô. Đó là Luna, một chú bé rất thân thiện đã hai ba lần mời chúng tôi về nhà dùng bữa trưa. Chúng tôi dành một khoảng thời gian để sửa xe, phần thời gian còn lại thì đến nhà những người tò mò đã gặp chúng tôi tại garage để xem có được đãi ăn chút gì không. Kế bên garage là một gia đình gốc Đức. Họ đã tiếp đãi chúng tôi thật ân cần. Chúng tôi ngủ đêm tại một trại lính địa phương.
Chiếc xe đã được sửa chữa tạm ổn và chúng tôi quyết định ra đi vào ngày hôm sau, vì vậy chúng tôi bèn gác sang một bên những ưu tư và theo lời mời của những người bạn mới, chúng tôi làm vài ly. Rượu vang Chilê thật tuyệt! Tôi uống thật tốc độ và thật nhiều. Nhiều đến nỗi khi đến buổi khiêu vũ trong làng tôi đã thấy trời đất như quay cuồng. Buổi tối trôi qua thật vui thú với rượu thịt ê hề. Một người thợ cơ khí rất thân thiện trong garage mời tôi nhảy với vợ anh ta vì anh ta đã ngà ngà say. Vợ anh ta rất nóng bỏng và cũng đã uống khá nhiều rượu. Tôi nắm tay cô ta và cố dìu cô ra ngoài. Cô ngoan ngoãn bước theo bước chân của tôi nhưng rồi thấy chồng mình đang quan sát, cô không đồng ý để tôi dìu đi nữa. Nhưng tôi đã không còn biết trời trăng gì và chúng tôi cãi nhau ngay giữa sàn nhảy. Tôi bắt đầu lôi kéo cô về phía một trong số các cánh cửa, trong khi tất cả mọi con mắt đều đổ dồn vào. Cô kháng cự, đá vào người tôi, rồi cô mất thăng bằng té nhào xuống đất.
Chúng tôi chạy như ma đuổi về làng, theo sau là cả một đám đông la ó giận dữ. Alberto luôn miệng càu nhàu về những chai rượu vang lẽ ra chồng cô đã mua tặng chúng tôi. Cũng tại cái tội uống rượu!
"Trong những giây phút cuối cùng, đối với những người mà chân trời xa nhất vẫn còn nằm ở ngày mai, họ hiểu được cảnh đời bi thảm của những người bần cùng, vô sản trên thế giới này. trong những đôi mắt hấp hối đó, có những lời cầu xin được tha thứ và một niềm an ủi tuyệt vọng đã lạc mất trong cõi hư vô, cũng như thân xác họ rồi cũng mất hút trong những điều bí ẩn bao quanh chúng ta. Cảnh đời này, sự phân biệt giai cấp vô lý này sẽ kéo dài đến khi nào, tôi cũng không thể trả lời được..." - Ernesto Che Guevara, Nhật ký hành trình, 1952.
14 - Vĩnh biệt con ngựa sắt La Poderosa II
Chúng tôi thức dậy sớm để sửa nốt phần hư hỏng còn lại của chiếc môtô và để thoát khỏi một nơi không còn hiếu khách nữa. Nhưng trước đó chúng tôi cũng được mời dùng bữa trưa cuối cùng với gia đình sống bên cạnh garage. Do linh tính báo trước nên Alberto không chịu lái, vì vậy tôi phải chở anh vài kilômét trước khi dừng lại để sửa hộp số. Xa hơn một chút, khi chúng tôi quẹo một khúc quanh đột ngột với tốc độ cao, thì con ốc giữ phanh chân bánh sau văng ra khỏi xe trong lúc một cái đầu bò xuất hiện ở khúc quanh,và tiếp theo sau là nhiều con bò nữa. Tôi dùng hết sức bóp thắng tay, nhưng cái thắng tay hàn không chắc bị rời ra luôn. Tôi đành đạp ngược vào cần số với hy vọng làm như vậy xe sẽ giảm được tốc độ. Trong thoáng chốc, tôi chẳng còn thấy gì ngoài hình dáng những con bò đang lao đến trong tầm mắt và ùa qua hai bên trong khi chiếc La Poderosa khốn khổ dường như không giảm tốc độ đổ dốc được bao nhiêu. Nhưng thật là kỳ lạ, chúng tôi chỉ quẹt nhẹ vào chân một con bò, nhưng dòng sông phía trước đang gào thét khủng khiếp. Tôi lách qua một bên, và trong nháy mắt chiếc xe bay lên bờ sông cao hai mét, quăng hai đứa chúng tôi vào giữa hai khối đá, nhưng may mắn thay, chúng tôi không hề hấn gì, dù đau ê ẩm. Nhờ đọc mấy bài báo Chilê ca ngợi chúng tôi, vài người Đức đã đỡ chúng tôi dậy và tiếp đãi chúng tôi rất tử tế. Suốt đêm hôm đó tôi bị tiêu chảy thật tệ hại. Thật xấu hổ nếu như để lại một bô kỷ niệm dưới gầm giường, vì vậy tôi leo ra ngoài gờ cửa sổ để cho cơn đau tan biến trong đêm đen. Sáng hôm sau tôi nhìn ra ngoài để xem xét kết quả thì hỡi ôi, bên dưới cửa sổ khoảng hai mét có một tấm bạt lớn mà người ta căng ra để phơi những quả đào! Cảnh tượng tiếp theo thật là ấn tượng và khó kể lại. Chúng tôi phải biến ngay thôi!

Mặc dù mới nhìn thoáng qua tai nạn không có vẻ nghiêm trọng lắm, nhưng rõ ràng là chúng tôi đã đánh giá quá thấp sự thiệt hại. Chiếc xe lắc lư kỳ lạ mỗi khi nó phải leo dốc. Trên con đường dốc đến Malleco, nơi có một chiếc cầu xe lửa mà người Chilê cho là cao nhất châu Mỹ, chiếc môtô chạy ì ạch và chúng tôi phải bỏ cả một ngày chờ đợi một tâm hồn cao thượng cứu thế (hóa thân trong tài xế một chiếc xe tải) có thể mang chúng tôi lên đỉnh dốc. Sau khi được cho quá giang đúng như kỳ vọng, chúng tôi đến thị trấn Cullipulli, nghỉ qua đêm tại đó, và ra đi thật sớm vì sợ trên đường đi, chiếc xe gắn máy của mình sẽ lại gặp tai họa. Trên đoạn đường dốc đầu tiên của con đường có quá nhiều đèo dốc này, chiếc La Poderosa rệu rã vô phương cứu chữa cuối cùng đã bỏ cuộc. Chúng tôi ngậm ngùi không muốn chia tay nó. Đành phải vác nó theo vậy! Một chiếc xe tải chở chúng tôi đến Los Angeles. Tại đây chúng tôi để xe tại trạm cứu hỏa và ngủ tại nhà một trung úy quân đội Chilê. Dường như anh ta rất biết ơn về việc từng được đối xử tử tế tại Argentina và không biết làm thế nào để chúng tôi hài lòng. Đó là ngày cuối cùng của hai kẻ phiêu lưu trên môtô; giai đoạn kế tiếp sẽ gian khổ hơn nhiều đối với hai kẻ lãng tử cuốc bộ trên đường xa vạn dặm mà không biết được điều gì sẽ chờ đợi mình vào ngày mai.

"Với lòng tự tin phi thường của một người lái xe không có kinh nghiệm, Ernesto trả xe về số ba, rồi số hai, lúc này xe đã giảm tốc độ được một chút, và cuối cùng, khó khăn lắm anh mới trả xe về số một. Ngay lập tức, lợi dụng tốc độ xe chậm lại, anh lao xe đến bờ sông. Khi tôi nhảy ra khỏi yên sau thì anh xoạc chân ra, và tôi thấy anh văng ra khỏi xe ngay trước khi bánh trước đâm sầm vào vách đá. Chúng tôi chạy nhanh đến tắt máy để xe khỏi bốc cháy, rồi ôm nhau sung sướng vì biết mình vần còn sống." - Alberto Granado, Hành trình cùng Che Guevara
15 - Làm lính cứu hỏa, phu bốc vác kiếm tiền...
Theo như tôi biết thì ở Chilê, việc gia nhập lực lượng phòng cháy chữa cháy là tự nguyện. Đó là một công việc rất tốt, bởi vì điều khiển một đội cứu hỏa là một vinh dự lớn lao cho những người có khả năng nhất ở thị trấn cũng như ở quận huyện. Và đừng nghĩ đó là một công việc trên lý thuyết: ở miền nam Chilê hỏa hoạn xảy ra gần như thường xuyên. Tôi không biết chắc đâu là nguyên do chính của các đám cháy. Có thể bởi vì hầu hết nhà cửa đều được xây dựng bằng gỗ, hoặc có thể vì trình độ văn hóa của người dân vẫn còn thấp, hay là một nguyên nhân nào đó, hoặc là tất cả các nguyên nhân hợp lại. Điều chắc chắn là trong ba ngày chúng tôi ở trạm cứu hỏa, có hai đám cháy lớn và một đám cháy nhỏ. Tôi đã quên giải thích là sau khi ngủ đêm tại nhà của viên trung úy, chúng tôi quyết định chuyển đến trạm phòng cháy chữa cháy, do bị hấp dẫn bởi nét duyên dáng của ba cô con gái của người bảo vệ. Cả ba là điển hình của phụ nữ Chilê, dù đẹp hay xấu vẫn thanh thoát, tươi mát và quyến rũ... Họ cho chúng tôi một căn phòng, chúng tôi mở cái giường dã chiến ra và lăn vào ngủ như chết, không hề nghe thấy tiếng còi báo động. Những người lính cứu hỏa tình nguyện không biết chúng tôi đang ở trạm, phóng xe vút đi trong khi chúng tôi ngủ mê mệt cho đến sáng. Khi biết được điều đó, chúng tôi yêu cầu họ cho chúng tôi tham gia trong lần chữa cháy kế tiếp. Ba ngày sau, chúng tôi tìm được một chiếc xe tải chở chúng tôi và chiếc La Poderosa trong hai ngày đến Santiago với giá rẻ, với điều kiện là chúng tôi phải giúp đỡ họ trong việc bốc xếp.

Những ngày tại Los Angeles trôi qua cùng với những câu chuyện bất tận về những người lính cứu hỏa tình nguyện, về ba cô con gái của người bảo vệ. Trong mắt tôi, hình ảnh đầy tính chất biểu tượng của thị trấn sẽ luôn luôn là những ngọn lửa đầy cuồng nộ. Đó là ngày lưu lại cuối cùng và sau những ly rượu tiễn biệt, chúng tôi thu xếp chăn mền và đi ngủ. Tiếng còi báo động xé tan màn đêm, kêu gọi những tình nguyện viên làm nhiệm vụ, vang dội đến giường của Alberto làm anh giật nảy người lên. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đã vào vị trí trong chiếc xe cứu hỏa "Chile - Espana" (1). Chiếc xe rời khỏi trạm với tốc độ chóng mặt, còi xe gầm rú inh ỏi nhưng cũng chẳng làm ai ngạc nhiên vì từ lâu, họ đã quá quen với cảnh tượng này. Những vòi nước phun lên khung nhà đang bốc cháy, căn nhà gạch-gỗ rung lắc dữ dội. Khói gỗ cháy cay xè bay vào mắt những tình nguyện viên đang cố sức bảo vệ những nhà lân cận bằng nước hoặc bất cứ phương tiện gì. Ngọn lửa đã không lan tới một góc nhỏ của căn nhà. Nơi góc đó có một con mèo quá sợ hãi chỉ biết kêu meo meo mà không dám chạy qua kẽ hở không có lửa. Alberto phát hiện ra sự nguy hiểm, tính toán khoảng cách, chạy ào băng qua lửa, cứu thoát được con mèo nhỏ và trả về cho chủ của nó. Alberto được tán thưởng nhiệt liệt vì hành động dũng cảm, mắt anh sáng lên một niềm kiêu hãnh bên dưới chiếc mũ bảo hộ to đùng mà anh vừa mới mượn. Nhưng mọi chuyện đều phải có lúc kết thúc, và Los Angeles cùng chúng tôi nói lời từ biệt cuối cùng. Che Nhỏ và Che Lớn (Alberto và tôi) trang trọng bắt tay từ biệt mọi người khi chiếc xe tải bắt đầu cuộc hành trình đến Santiago, mang theo trên lưng nó xác của chiếc La Poderosa II.

Chúng tôi đến Santiago vào một ngày Chủ Nhật và chạy thẳng đến garage Austin. Chúng tôi có giấy giới thiệu của ông chủ nhưng thật ngạc nhiên và đau khổ khi garage đã đóng cửa. Cuối cùng chúng tôi năn nỉ người bảo vệ nhận chiếc xe, và đi bốc xếp trả nợ cho chuyến quá giang. Làm bốc xếp có những giai đoạn khác nhau: giai đoạn một khá thú vị, gồm cả việc ăn hết hai kí lô nho trong khi vắng mặt ông chủ; giai đoạn hai là bọn họ đến và tiếp theo là công việc nặng nhọc; giai đoạn ba Alberto thấy đồng nghiệp của tên tài xế rất rầu rĩ về sức khỏe của hắn - kết quả là chúng tôi đã thua cá độ khi hắn bốc vác nhiều hơn cả hai đứa chúng tôi và phần của ông chủ cộng lại. Chúng tôi xoay xở tìm được viên lãnh sự tại cái gọi là văn phòng lãnh sự. Mặt lạnh lùng như đá, hắn chỉ cho phép chúng tôi ngủ ngoài hiên. Sau khi lên lớp chúng tôi một bài tràng giang đại hải về nghĩa vụ công dân, hắn bay lên đến tột đỉnh của lòng quảng đại khi móc túi đưa cho chúng tôi 200 pêsô. Chúng tôi đã thẳng thắn từ chối một cách kiêu hãnh. Giá mà hắn giúi cho chúng tôi món tiền đó vào ba tháng sau thì đó sẽ là một chuyện rất khác.

Santiago về một phương diện nào đó cũng cho ta một cảm giác giống như ở Cordoba. Mặc dù cuộc sống hàng ngày hối hả hơn và xe cộ lưu thông dày đặc hơn, nhưng những tòa nhà, đường phố, thời tiết, và thậm chí gương mặt người dân đã làm cho chúng tôi nhớ đến thành phố Địa Trung Hải của mình. Chúng tôi không thể tìm hiểu nhiều hơn về thành phố này vì chúng tôi phải chịu áp lực của thời gian, chỉ trong vài ngày chúng tôi phải giải quyết xong nhiều việc trước lúc lên tàu. Lãnh sự Peru từ chối không cấp visa cho chúng tôi nếu như không có giấy chấp thuận từ phía Argentina. Phía Argentina lại cho rằng đi bằng môtô thì chúng tôi không thể đến Peru được. Cuối cùng chúng tôi phải cầu cứu đến đại sứ quán. Ở đây người ta cũng quên rằng chiếc La Poderosa II đã hoàn thành sứ mệnh của nó nên tỏ ra ít khắt khe hơn. Cuối cùng chúng tôi cũng được cấp visa đi Peru và phải trả 400 pêsô Chilê, một mức giá quá đắt đối với chúng tôi. Trong thời gian đó, có một đội bóng nước tên là Suquia từ Cordoba đang viếng thăm Santiago. Nhiều thành viên của đội bóng là bạn bè của chúng tôi, vì vậy chúng tôi gọi điện cho họ và được mời đi ăn kiểu Chilê. Ngày hôm sau chúng tôi leo lên Santa Lucia, đó là một đồi đá có lịch sử đặc biệt ở trung tâm thành phố. Trong khi chúng tôi đang chụp ảnh thành phố, một đoàn xe chở những thành viên đội bóng Suquia chạy đến, dẫn đầu là một số thành viên trong câu lạc bộ. Mấy gã thanh niên tội nghiệp cảm thấy bối rối không biết có nên giới thiệu với chúng tôi "những phụ nữ nổi tiếng của xã hội Chilê" hay giả vờ không biết chúng tôi là ai. Nhưng mặc dù vậy, cuối cùng họ cũng vượt qua sự ngại ngùng và giới thiệu các cô với chúng tôi. Tất cả thật là thân thiện, cho dù chúng tôi là những người đến từ thế giới khác biệt với thế giới của họ.

Ngày trọng đại cuối cùng cũng đến và hai hàng nước mắt tuôn rơi trên má của Alberto. Chào vĩnh biệt chiếc La Poderosa để trong một garage bé nhỏ, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đến Valparaiso. Chiếc xe tải chở hai kẻ lang thang chạy dọc theo con đường núi đồ sộ, một công trình có thể so sánh với những kỳ quan thiên nhiên chưa bị bàn tay con người tàn phá.

"Chạy được khoãng một dặm chúng tôi bắt đầu thấy được ngọn lửa, và sau đó là mùi nhựa cây tùng đang cháy. Bất kể đường sá khó khăn, chúng tôi lao vào đám cháy." - Alberto Granado, Hành trình cùng Che Guevara.
16 - Nụ cười La GioConDa
Chúng tôi bước vào một giai đoạn mới của cuộc hành trình. Trước đây, chúng tôi đã gợi lòng thương hại nơi những người chủ trọ với mấy bộ quần áo lôi thôi lếch thếch cùng với con chiến mã La Poderosa đáng thương thở phì phò. Nhưng về một phương diện nào đó, chúng tôi là những kỵ sĩ của đường xa; chúng tôi là "những nhà quý tộc lang thang". Người ta gọi chúng tôi bằng những danh hiệu sang trọng gây ấn tượng nhất. Tất cả những điều đó bây giờ không còn nữa. Bây giờ chúng tôi là hai kẻ vai mang ba lô chuyên đi quá giang, quần áo bám đầy bụi đường làm mờ nhạt hình bóng quý tộc xưa kia. Người tài xế xe tải thả chúng tôi xuống ngoại ô thành phố. Với đôi chân mệt mỏi, chúng tôi lê ba lô dọc theo đường phố, theo sau là những cái nhìn hiếu kỳ hoặc thờ ơ của dân chúng. Ở phía xa, hải cảng đang lấp lánh ánh sáng đầy sức thu hút của những chiếc tàu. Biển đen thẫm đang mời mọc và vẫy gọi chúng tôi - hương vị của biển mơn man trên da mặt. Chúng tôi mua bánh mì - dường như bánh mì ở đó khá đắt và sẽ rẻ hơn khi chúng tôi đi xa về phía bắc - rồi tiếp tục thả bộ theo con dốc. Alberto đã kiệt sức thấy rõ, và tôi cũng đã thấm mệt mặc dù bên ngoài cố không biểu hiện. Vì vậy khi thấy một chiếc xe tải dừng lại, chúng tôi tấn công ngay bằng gương mặt thảm thương, kể lể về những nỗi nhọc nhằn trên con đường thiên lý từ Santiago. Người chủ xe cho chúng tôi ngủ trên mấy tấm ván gỗ cùng với những kẻ nhờ xe khác, nhưng ít ra chúng tôi cũng có một mái che và một nơi ẩn trú.

Tin tức về chúng tôi đã đến tai một người đồng hương, làm tại một nhà hàng rẻ tiền bên cạnh bãi đậu xe, và anh ta muốn gặp chúng tôi. Gặp gỡ ở Chilê là một biểu hiện của tính hiếu khách và chúng tôi không từ chối ân huệ đó. Người bạn đồng hương đã chứng tỏ là thấm nhuần tính hiếu khách của đất nước Chilê anh em. Từ lúc ăn cá lần trước đến nay đã lâu rồi, rượu vang thì rất ngon, và người chủ thì rất ân cần... Thế là chúng tôi ăn uống nhiệt tình và anh ta mời chúng tôi thăm nhà vào ngày hôm sau. Quán bar La Gioconda mở cửa sớm và chúng tôi uống trà thảo dược, tán gẫu với ông chủ. Ông ta rất quan tâm đến cuộc hành trình của chúng tôi. Sau đó chúng tôi đi tham quan thành phố. Valparaiso rất đẹp, xây dựng trên bờ biển và nhìn ra vịnh lớn. Thành phố mở rộng lên những ngọn đồi trải dài xuống tận bờ biển. Đường lên đồi được xây dựng thành bậc thang với những căn nhà mái tôn dợn sóng kỳ lạ và màu sắc đa dạng, hoàn toàn tương phản với màu xanh xám xịt của vịnh. Chúng tôi kiên nhẫn đi theo con đường dốc, lần theo những bậc thang dơ bẩn vào những chỗ hẻo lánh tối tăm, nói chuyện với những nhóm người ăn xin. Chúng tôi cũng xuống đến những nơi sâu thẳm đầy khí độc của thành phố. Mũi của chúng tôi sưng lên khi hít thở cái mùi của sự nghèo khổ cùng cực. Chúng tôi xuống bến tàu để xem có chiếc nào đi đảo Easter không, nhưng sự thật càng làm nản lòng: sáu tháng nữa mới có tàu đến đó. Chúng tôi thu thập được những thông tin mơ hồ về những chuyến bay, mỗi tháng có một chuyến.

Đảo Easter! Trí tưởng tượng bay bổng với thông tin: "Ở đó, có bạn trai là một vinh dự", "Công việc hả? Hà hà! Phụ nữ làm hết mọi thứ - bạn chỉ ăn, ngủ và làm họ hài lòng". Ở nơi tuyệt vời này thời tiết thật đẹp, phụ nữ thật tuyệt, thức ăn thật ngon, công việc thật thuận lợi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chúng tôi ở lại nơi đó một năm? Ai quan tâm đến việc học, công việc, gia đình... Trên cửa sổ quán bar, con tôm to tướng đang nháy mắt với chúng tôi. Cả thân hình của nó trên dĩa rau diếp như muốn nói, "Tôi ở đảo Easter, ở đó thời tiết thật đẹp, phụ nữ thật tuyệt..." Ở ngưỡng cửa quán La Gioconda, chúng tôi kiên nhẫn chờ người bạn đồng hương xuất hiện, nhưng không có dấu hiệu nào của anh ta. Thay vào đó, chủ quán mời chúng tôi vào tránh nắng và đãi chúng tôi một bữa ăn trưa thịnh soạn với cá chiên và xúp. Trong suốt thời gian ở Valparaiso, chúng tôi không còn được nghe về Argentina nữa, mặc dù vậy, chúng tôi trở nên những người bạn thân thiết của ông chủ bar. Ông ta là một con người kỳ lạ, rất hào phóng với tầng lớp nghèo khổ, nhưng tính giá cắt cổ đối với những khách hàng khác. Chúng tôi đã không phải trả xu nào trong suốt thời gian ở lại Valparaiso. Ông vẫn thường nói: "Lần này tôi trả, lần sau đến lượt các anh.". Và lần nào cũng là lần đầu. Thật ít người tốt bụng như ông ta. Chúng tôi cố gắng liên lạc với các bác sĩ từ Petrohue, nhưng họ đã trở lại với công việc, không còn thời gian rảnh rỗi nữa và không chịu chính thức gặp chúng tôi. Nhưng ít ra chúng tôi cũng biết họ đang ở đâu. Vào một buổi chiều, chúng tôi đi theo hai hướng - Alberto theo dấu vết của các vị bác sĩ; tôi đến thăm một bà lão bị bệnh suyễn, một khách hàng của quán La Gioconda. Bà lão tội nghiệp sống trong một tình trạng đáng thương, hít thở mùi cay xè của mồ hôi và những bàn chân bẩn đầy cả phòng, trộn với bụi trên hai cái ghế salon, món đồ đáng giá duy nhất trong phòng. Tệ hơn bệnh suyễn, bà còn bị bệnh tim. Khi một người bác sĩ ý thức về sự bất lực của mình, ông ta thường mong mỏi một sự thay đổi: một sự thay đổi để ngăn cản những điều bất công của một hệ thống. Trong hệ thống đó, tháng trước bà lão này vẫn còn kiếm sống bằng nghề phục vụ nhà hàng, mà bây giờ đang khò khè hổn hển đối diện với số phận của mình. Trong những cảnh ngộ như thế này, những thành viên của những gia đình nghèo, họ không còn là cha, là mẹ, là anh, là chị, mà là một thực thể yếu đuối đang đấu tranh với số phận, là niềm cay đắng đối với những người còn khỏe mạnh trong gia đình. Họ căm ghét bệnh tật như thể đó là một điều sỉ nhục. Trong những giây phút cuối cùng, đối với những người mà chân trời xa nhất vẫn còn nằm ở ngày mai, họ hiểu được cảnh đời bi thảm của những người bần cùng, vô sản trên thế giới này. Trong những đôi mắt hấp hối đó, có những lời cầu xin được tha thứ và một niềm an ủi tuyệt vọng đã lạc mất trong cõi hư vô, cũng như thân xác họ rồi cũng mất hút trong những điều bí ẩn bao quanh chúng ta. Cảnh đời này, sự phân biệt giai cấp vô lý này sẽ kéo dài đến khi nào, tôi cũng không thể trả lời được. Nhưng đã đến lúc những kẻ thống trị cần phải hạn chế bớt thời gian quảng cáo cho đức hạnh của mình, mà phải bỏ ra nhiều tiền hơn, thật nhiều tiền tài trợ cho những hoạt động phúc lợi xã hội.

Tôi không thể làm gì nhiều cho bà lão đau yếu này. Tôi chỉ khuyên bà nên có chế độ ăn uống hợp lý, cho bà một liều thuốc lợi tiểu và mấy viên thuốc suyễn. Còn vài viên Dramamine tôi cũng cho bà nốt. Tôi ra về, phía sau là những lời cám ơn rối rít của bà lão và những cái nhìn thờ ơ của gia đình bà. Alberto cũng đã tìm được chỗ của mấy ông bác sĩ. Chín giờ sáng hôm sau chúng tôi phải có mặt tại bệnh viện. Trong khi đó, trong căn phòng bẩn thỉu của quán La Gioconda - vừa làm nhà bếp, vừa làm nhà hàng, tiệm giặt, phòng ăn và là chỗ cho chó mèo làm bậy - có một cuộc họp mặt gồm đủ hạng người: ông chủ, với triết lý sống giản đơn; Dona Carolina, một bà điếc đã giúp chúng tôi chùi lại ấm trà như mới; một người đàn ông Mapuche (1) bạc nhược và say xỉn; hai ba người khách hàng bình dân; và Dona Rosita điên khùng, nữ hoàng của các buổi họp mặt. Câu chuyện xoay quanh sự kiện rùng rợn mà Rosita đã chứng kiến. Có vẻ như chỉ có một mình cô ta trông thấy một người đàn ông cầm dao đâm một người hàng xóm.

"Người hàng xóm có la lên không, Rosita?"

"Tất nhiên rồi, ai mà không la! Hắn lột da sống cô ấy đấy! Chưa hết đâu. Sau đó, hắn mang cô ta ra biển và kéo xác cô ta ra để nước cuốn đi. Trời ơi, nghe cô ta la mà ban ngày tôi vẫn còn sợ đó, mấy ngài ơi! Lẽ ra các người phải tận mắt chứng kiến!"

"Tại sao cô không gọi cảnh sát, Rosita?"

"Để làm gì? Bà không nhớ chuyện người em họ bà bị đánh sao? Tôi đi báo cảnh sát thì họ bảo rằng tôi điên, rằng tôi còn bịa chuyện thì họ sẽ bắt nhốt. Không, tôi sẽ không báo cảnh sát đâu!"

Câu chuyện lại xoay sang "thông điệp của Thượng Đế", một người đàn ông địa phương sử dụng quyền năng Thượng Đế ban tặng để chữa bệnh câm điếc, bại liệt. Hắn chuyền cái dĩa quyên tiền đến từng người, tiếp theo là những tờ truyền đơn đến trong sự cả tin khờ dại của con người. Nhưng mọi người lại tiếp tục chế nhạo những điều Rosita chứng kiến.

Mấy ông bác sĩ không được thân thiện lắm, nhưng chúng tôi cũng đạt được mục đích của mình: họ giới thiệu chúng tôi với Molinas Luco, thị trưởng của Valparaiso. Chúng tôi lại khăn gói đến tòa thị chính. Viên thư ký ngồi tại bàn giấy chẳng lấy gì làm hài lòng với vẻ nhếch nhác và kiệt sức của chúng tôi, nhưng ông ta được lệnh phải cho chúng tôi vào. Cô thư ký đưa cho chúng tôi một bản copy lá thư phúc đáp, giải thích rằng dự tính của chúng tôi là không khả thi bởi vì chiếc tàu duy nhất đến đảo Easter đã rời bến và trong năm đó không còn một chuyến tàu nào khác. Chúng tôi được hướng dẫn đến văn phòng lộng lẫy của bác sĩ Molinas Luco, ông này đón tiếp chúng tôi thật thân mật. Tuy nhiên chúng tôi có cảm giác là ông ta đang đóng kịch bởi vì mỗi lời nói của ông ta đều hoàn hảo. Ông đặc biệt hứng khởi khi nói về đảo Easter mà ông đã giành giật từ tay người Anh khi chứng minh rằng nó thuộc về Chilê. Ông ta khuyên chúng tôi nên nhớ những biến cố đó và nói sẽ đưa chúng tôi đến đảo Easter vào năm sau. "Có lẽ lúc đó tôi sẽ không còn làm việc ở văn phòng này nữa, nhưng tôi vẫn còn là chủ tịch của Hội những người bạn của đảo Easter", ông nói, ám chỉ thất bại của Gonzalez Videla trong cuộc bầu cử sắp tới. Khi chúng tôi ra về, viên thư ký ngồi ở bàn giấy đột nhiên bảo chúng tôi phải mang con chó về, và chúng tôi kinh ngạc khi ông ta chỉ một con chó con nào đó vừa mới làm một bãi trên tấm thảm phòng khách và đang gặm chân ghế. Có lẽ bị hấp dẫn bởi vẻ lang thang rách rưới của chúng tôi, con chó đã đi theo và người gác cửa nghĩ rằng du thủ du thực như chúng tôi thì chó theo là phải. Thế là con vật tội nghiệp nhận một cú đá vào đít, vừa văng ra ngoài vừa kêu ăng ẳng. Tuy nhiên, thật là một niềm an ủi cho chúng tôi khi biết rằng có một sinh vật sống cần được sự che chở của chúng tôi.

Cho đến lúc này, chúng tôi quyết định sẽ đi tiếp bằng đường biển vì cho rằng như thế thì có thể né tránh được sa mạc ở phía bắc Chilê. Thế là chúng tôi lê bước đến công ty vận tải đường biển xin quá giang đến cảng phía bắc. Thuyền trưởng hứa sẽ cho chúng tôi đi nếu như ban giám đốc cho phép chúng tôi làm việc trên tàu để đổi lấy chuyến đi miễn phí. Đáp lại sự chờ đợi của chúng tôi là một lời từ chối và chúng tôi thấy mình ngồi ngơ ngác tại cảng. Trong giây phút đó, Alberto đã có một quyết định dũng cảm: chúng tôi sẽ lẻn lên tàu và trốn ở một góc nào đó. Chúng tôi phải chờ đêm đến để hành động, cố gắng thuyết phục người thủy thủ trực đêm và chờ đợi những gì sẽ xảy ra. Chúng tôi về thu xếp đồ đạc, rõ ràng là quá nhiều cho một chuyến đi lậu như thế này. Trong sự tiếc nuối lớn lao, chúng tôi từ biệt bạn bè và sau đó băng qua cổng chính vào cảng; quyết tâm không lùi bước, không chừa đường quay lại, chúng tôi quyết tâm cho một cuộc phiêu lưu bằng đường biển - dù không được phép.
29 - Một đám rước...
Những hồi chuông của ngôi giáo đường Maria Angola ngân vang lần đầu tiên kể từ sau trận động đất. Truyền thuyết cho rằng cái chuông nổi tiếng này, một trong những cái chuông lớn nhất thế giới, trong chuông có chứa 27 kg vàng bên trong. Chuông này được tài trợ bởi một phụ nữ tên Maria Angulo, nhưng tên của cái chuông đã bị đổi do nó có vần với một tiếng lóng(1). Chi phí trùng tu những tháp chuông của ngôi giáo đường, bị động đất hủy diệt năm 1950, do chính phủ của tướng Franco(2) chi trả, và để tỏ lòng biết ơn, một ban nhạc được chỉ định chơi quốc ca Tây Ban Nha. Khi những hợp âm đầu tiên vang lên, vị giám mục nắm chặt chiếc khăn trùm đầu màu đỏ và vung tay như một con rối. "Ngừng lại. Ngừng lại. Nhầm rồi," ông thì thầm nhưng mọi người có thể nghe rõ giọng đầy phẫn nộ của một người Tây Ban Nha đi chinh phục, "Công trình hai năm trời, bây giờ chúng nó lại chơi như thế này!". Tôi không biết đó có phải là chủ ý không, nhưng thay vì chơi quốc ca Tây Ban Nha, ban nhạc lại chơi bài quốc ca của Đảng Cộng hòa Tây Ban Nha.

Vào buổi chiều, vị mục sư rời khỏi ngôi giáo đường. Trung tâm của sự náo nhiệt chính là bức tượng Chúa màu nâu sẫm mà ông mang theo. Đoàn người hành hương của ông diễu hành qua thành phố và dừng lại ở tất cả những ngôi giáo đường chính. Khi ông đi ngang qua, một đám đông những kẻ lang thang tranh nhau tung lên những bông hoa nhỏ, loại hoa mọc rất nhiều trên sườn dốc của những ngọn núi lân cận, tiếng địa phương gọi là nucchu. Màu đỏ thẫm của hoa, màu đồng dữ dội của bức tượng Chúa và màu bạc của bàn thờ mà họ đặt tượng Chúa làm cho đám rước có ấn tượng như là một lễ hội của đa thần giáo. Cảm giác này càng trở nên mãnh liệt thêm khi mọi người mặc những bộ trang phục nhiều màu sắc của thổ dân. Ngược lại, một nhóm thổ dân mặc trang phục châu Âu, tay cầm biểu ngữ đang đi tuần hành phía trước đám rước. Những gương mặt mệt mỏi, không tự nhiên gợi lên hình ảnh của những người Quechua từ chối nghe theo lời kêu gọi của Manco II, cam kết theo Pizarro để rồi đến khi thất bại, họ đã làm tàn lụi niềm tự hào của một dân tộc độc lập.

Những thổ dân đứng nhìn đám rước đi ngang qua, và thấp thoáng ẩn hiện trong đó là cái đầu tóc vàng hoe của một người Bắc Mỹ. Với chiếc máy ảnh và chiếc áo thể thao, dường như anh ta là (và quả thật, thực sự anh ta là) một phóng viên đến từ một thế giới khác và bị lạc vào cái hoang vắng tịch liêu của đế chế Inca.
30 - Thành phố của những kẻ chinh phục..
Thành phố thịnh vượng trước kia của đế chế Inca đã duy trì thời kỳ vàng son trong nhiều năm. Nơi đây có những con người khoe khoang sự giàu có thật sự của mình. Theo thời gian, họ càng giàu có hơn vì khu vực này là nơi hội tụ của những mỏ vàng, mỏ bạc. Điều làm cho Cuzco không còn mang cái tên "cái rốn của thế giới" lại xuất phát từ bên ngoài. Của cải, châu báu của thành phố đã tuôn về thủ phủ mới ở bên kia đại dương để làm giàu có thêm cho một triều đình khác. Người thổ dân không còn lao động với lòng quyết tâm trên mảnh đất cằn cỗi của mình; mặc dù những kẻ chinh phục người Tây Ban Nha không đến đây để tranh giành đất đai sinh sống hằng ngày, nhưng họ đến để thu gom của cải với mục đích thể hiện chiến công hay đơn giản là do lòng tham. Dần dần Cuzco trở nên tàn lụi, bị đẩy ra ngoài lề, mất hút trong những dãy núi. Trên bờ biển Thái Bình Dương, một địch thủ mới xuất hiện, chính là Lima, phát triển nhờ lợi tức thu được từ việc đánh thuế khi làm nơi trung chuyển của cải tuôn ra từ Peru. Mặc dù không có những biến cố lớn đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp này nhưng thủ đô huy hoàng của Inca ngày nay chỉ là những dấu tích của thời gian. Thời gian gần đây có một vài tòa nhà hiện đại mọc lên tương phản với những phế tích, nhưng tất cả những tượng đài của một thời huy hoàng vẫn còn tồn tại.

Ngôi giáo đường đứng sừng sững giữa trung tâm thành phố. Vẻ kiên cố tiêu biểu cho một thời đại đã làm nó trông giống như một pháo đài hơn là một ngôi nhà thờ. Vẻ rực rỡ của kiến trúc bên trong phản ánh một quá khứ huy hoàng; những bức họa khổng lồ trên các bức tường tuy không sang trọng như những vật trang trí khác nhưng dù sao vẫn còn hài hòa với kiến trúc của ngôi giáo đường, và bức họa thánh Christopher hiện lên khỏi mặt nước, theo tôi là một tác phẩm có giá trị. Động đất đã tàn phá ngôi giáo đường: những bức họa bị vỡ khung và tranh thì trầy trụa hoặc nhàu nát. Tất cả khung và cánh cửa bằng vàng ở phía hông bàn thờ đều bị văng ra khỏi bản lề, tạo ra một hình ảnh kỳ lạ, như thể chúng đang phô bày sự tổn thương đối với thời gian. Không như bạc, vẻ mềm mại, dịu dàng chỉ tồn tại trong một thời gian, vàng luôn giữ được màu sắc và vẻ rực rỡ của nó. Chính vì vậy, ngôi giáo đường trông giống như một phụ nữ đã lớn tuổi nhưng lại trang điểm quá lòe loẹt. Đường nét nghệ thuật đích thực của ngôi giáo đường có thể tìm thấy nơi các bục sân khấu dành cho ca đoàn. Sân khấu được làm bằng gỗ do thợ thủ công gốc thổ dân hoặc lai châu Âu thực hiện. Khi chạm khắc để mô tả cuộc đời của các vị thánh, những người thợ này đã pha trộn tinh thần Thiên chúa giáo và tâm hồn đầy bí ẩn của nhân dân miền Andes.

Một báu vật của Cuzco rất đáng để du khách thăm viếng là bục giảng kinh của nhà thờ Basilica ở San Blas. Điểm đặc biệt của chiếc bục này chính là ở những đường nét điêu khắc buộc bạn phải dừng chân lại, chiêm ngưỡng trong sự thích thú. Và cũng như bục sân khấu dành cho ca đoàn, bục giảng kinh này cũng thể hiện sự hợp nhất của hai giống dân thù nghịch nhưng bổ sung cho nhau. Cả thành phố là một viện bảo tàng nghệ thuật rộng lớn: tất nhiên là có sự hiện hữu của những ngôi nhà thờ, nhưng mỗi căn nhà, mỗi ban công nhìn ra đường phố, đều khơi dậy quá khứ. Tất nhiên mỗi thứ có một giá trị riêng của nó. Nhưng giờ đây tại một nơi rất xa thành phố cổ đó, khi tôi viết những dòng nhật ký này, dòng chữ trước mắt tôi dường như nhạt nhòa và trở nên giả tạo, tôi không thể nói điều gì đã gây ấn tượng cho tôi mạnh mẽ nhất. Trong số những dấu tích của những ngôi nhà thờ mà tôi đã viếng thăm, tôi nhớ hình ảnh đáng thương của những tháp chuông nhà thờ Belen đã bị sụp đổ trong một trận động đất, nhìn giống như những con thú bị chặt hết chân tay nằm trên sườn đồi.

Trước sự tàn phá của thời gian, chỉ có vài bức họa còn sót lại. Nhưng Cuzco không phải là thành phố để viếng thăm chỉ vì có bức tranh này hay bức tranh kia, mà cả thành phố cùng tạo ấn tượng về một thủ phủ thanh bình, dù đôi lúc không yên tĩnh, của một nền văn minh đã bị mai một.
31 - Dấu tích thành phố cổ Cuzco
Nếu mọi thứ hình thành nên Cuzco đã bị xóa sạch khỏi mặt đất, thì vẫn còn một ngôi làng bé nhỏ, dù chẳng có ý nghĩa gì đối với lịch sử, nhưng luôn có những điều khiến người ta nhắc đến. Cuộc sống của chúng tôi trong hai tuần đó vẫn không mất đi chất lãng du của một cuộc hành trình.

Thư giới thiệu gởi cho bác sĩ Hermosa khá hữu dụng, dù thực ra ông không phải là loại người cần phải có những hình thức trịnh trọng mới ra tay giúp đỡ. Ông chỉ cần biết Alberto đã từng làm việc với bác sĩ Fernandez, một trong những chuyên gia hàng đầu về bệnh phong của châu Mỹ, và Alberto xuất trình danh thiếp bằng những động tác quen thuộc, thế là đủ. Cuộc nói chuyện cởi mở với bác sĩ Hermosa đã cho chúng tôi hình ảnh khá rõ về cuộc sống ở Peru và cơ hội thực hiện một chuyến đi vòng quanh thung lũng của người Inca bằng xe hơi của ông. Ông rất tử tế và cũng là người kiếm cho chúng tôi hai vé xe lửa đi Machu Picchu. Tốc độ xe lửa ở vùng này trung bình từ 10 đến 20 km/h, chậm như thế là do địa hình ở đây quá nhiều đèo dốc. Để xe lửa có thể vượt qua những con dốc khó khăn khi rời thành phố, đường ray phải được xây dựng sao cho xe chạy tới phía trước một lúc rồi trượt về phía sau sang một tuyến đường khác, rồi từ đó nó bắt đầu leo dốc, và việc chạy tới chạy lui này tiếp tục nhiều lần cho đến khi xe lên đến đỉnh và bắt đầu đổ dốc dọc theo hướng của một con sông mà cuối nguồn là Vilcanota. Trên chuyến xe lửa, chúng tôi gặp hai tên lừa đảo bán thảo dược và bói toán. Chúng rất thân thiện với chúng tôi, chia sẻ thức ăn sau khi chúng tôi mời chúng uống trà thảo dược. Trên đường đến khu di tích, chúng tôi tình cờ gặp một nhóm cầu thủ bóng đá và được mời tham gia. Tôi đã có dịp phô trương vài cú bắt bóng điệu nghệ trước khi khiêm tốn tự nhận mình đã từng chơi trong giải ngoại hạng tại Buenos Aires. Còn Alberto thể hiện mình trong vai trò một trung phong xuất sắc. Chúng tôi chơi trên một sân địa phương gọi là Pampa. Phong cách của chúng tôi đã gây sự chú ý cho ông bầu của đội bóng và cũng là chủ khách sạn. Ông mời chúng tôi ở lại vài ngày, cho đến khi một nhóm người Bắc Mỹ đến bằng xe lửa chở hành khách đặc biệt. Ngài Soto, một con người tuyệt vời và có học thức cao, và sau khi nói chán về thể thao chúng tôi chuyển sang nói chi tiết về văn hóa Inca, đây là lĩnh vực mà ông hiểu biết rất rộng.

Chúng tôi cảm thấy rất buồn khi đến lúc phải ra đi. Chúng tôi uống ly cà phê tuyệt vời cuối cùng do chính tay ngài Soto pha và lên chiếc xe lửa nhỏ trong cuộc hành trình kéo dài 12 giờ trở về Cuzco. Trên những chuyến xe lửa loại này có những toa xe hạng ba dành cho thổ dân địa phương: chúng trông giống như những toa xe chở súc vật mà người ta thường sử dụng tại Argentina, ngoại trừ một điều là mùi phân bò còn dễ chịu hơn mùi con người ở đây. Những cư dân địa phương này có nhận thức và phương tiện vệ sinh rất kém. Bất kể nam nữ và tuổi tác, họ đi vệ sinh ngay ở lề đường, phụ nữ thì lấy váy lau chùi, còn đàn ông thì thản nhiên như không, và rồi họ lại tiếp tục lên đường. Váy lót của phụ nữ có con nhỏ thực sự là một nơi chứa phân, hậu quả của việc họ lau chùi mấy đứa nhỏ khi chúng làm bậy. Tất nhiên du khách đi trên những toa xe sang trọng chỉ có những khái niệm mơ hồ về điều kiện sống của thổ dân khi họ nhìn lướt qua, lúc xe của họ vượt qua xe chúng tôi. Sự thật chính là do Bingham - nhà khảo cổ người Mỹ khám phá ra khu di tích Machu Picchu - đã trình bày tỉ mỉ những khám phá của ông trong những bài báo, rằng Machu Picchu bây giờ rất nổi tiếng và đại đa số người Bắc Mỹ khi viếng thăm Peru đều đến đây. (Thường thì họ bay thẳng đến Lima, đi tour đến Cuzco, viếng thăm khu di tích và quay thẳng về nhà, tin rằng không còn cái gì khác đáng để xem ở đây.)

Viện bảo tàng khảo cổ ở Cuzco khá nghèo nàn. Khi chính quyền để ý đến núi kho báu bị bọn buôn lậu chuyển đi thì đã quá muộn. Những kẻ săn lùng kho báu, du khách, những nhà khảo cổ nước ngoài, và bất cứ ai thích đồ cổ cũng có thể ra tay cướp phá một cách có hệ thống và người ta chỉ có thể thu thập cho viện bảo tàng những gì còn sót lại, nói chính xác hơn là những mảnh vụn rơi rớt lại. Vậy mà đối với những người như chúng tôi, những người không có hiểu biết nhiều về khảo cổ và với mớ kiến thức lộn xộn mới thu thập được về nền văn minh Inca, như thế cũng đủ để tham quan, khiến chúng tôi trở đi trở lại nơi này trong vài ngày. Người phụ trách bảo tàng là một thổ dân lai châu Âu. Ông có kiến thức rất rộng và vẫn giữ được sự nhiệt tình đối với bộ tộc mà dòng máu của họ vẫn còn chảy trong huyết quản của ông. Ông kể cho chúng tôi về quá khứ huy hoàng và thực tại khốn khổ, về nhu cầu cấp thiết phải giáo dục thổ dân, như là bước đầu tiên trong công cuộc phục hồi sức mạnh của một dân tộc. Ông nhấn mạnh rằng việc cải thiện ngay đời sống kinh tế của những gia đình thổ dân là cách duy nhất để làm giảm tác dụng gây nghiện của coca và rượu. Ông nói về việc khuyến khích người dân tìm hiểu về người Quechua, để có thể nhìn lại và tự hào về quá khứ, hơn là nhìn vào thực tại và cảm thấy tủi nhục vì là người thổ dân hay là người thổ dân lai châu Âu. Vấn đề về cây coca đang còn tranh cãi ở Liên hiệp quốc, chúng tôi nói với ông về kinh nghiệm của mình đối với ma túy và tác hại của nó. Ông đáp lại rằng ông đã từng bị nghiện và tuôn ra một tràng chửi rủa đối với những ai kiếm tiền bằng việc đầu độc rất nhiều người dân. Người Quechua và Colla chiếm đại đa số ở Peru chính là những người tiêu thụ coca. Tính cách của người hướng dẫn, đôi mắt rực sáng nhiệt tình và niềm tin vào tương lai của ông đã góp thêm một báu vật nữa cho viện bảo tàng, nhưng là một báu vật sống, bằng chứng của một chủng tộc vẫn còn đang đấu tranh để được công nhận
34 - Băng qua Peru
Cuộc hành trình của chúng tôi vẫn tiếp tục theo cùng một kiểu như cũ, thỉnh thoảng được ăn no khi gặp được một tấm lòng quảng đại. Tối hôm đó người ta nói với chúng tôi rằng có một vụ lở đất ở phía trước và xe không thể vượt qua được. Chúng tôi phải qua đêm trong một ngôi làng nhỏ tên là Anco.

Sáng sớm hôm sau mọi người lại lên đường, nhưng mới chạy được một chút thì xe đã đến chỗ đất lở và chúng tôi phải nghỉ cả một ngày ở đó, đói bụng và hiếu kỳ, quan sát công nhân cho nổ những khối đá khổng lồ nằm giữa đường. Cứ mỗi công nhân thì có không ít hơn năm giám sát hống hách. Họ quát tháo và cản trở công việc của những người cho nổ mìn, những người mà bản thân họ đã không phải là công nhân chuyên nghiệp. Chúng tôi cố dằn cơn đói bằng cách xuống bơi ở một dòng sông cuồn cuộn như thác, nhưng nước quá lạnh không thể tắm lâu được và cả hai đều không thể chống lại cái lạnh như đã nói trước đây. Cuối cùng, trước nỗi thảm hại của chúng tôi, một người đàn ông cho chúng tôi vài trái bắp và một người khác cho một ít tim bò và đồ lòng chưa nấu. Một phụ nữ cho chúng tôi mượn cái nồi và chúng tôi bắt đầu nấu bữa ăn. Nhưng vừa mới nửa chừng thì thợ nổ mìn đã thông đường và đoàn xe tải bắt đầu lăn bánh. Người đàn bà lấy lại cái nồi. Thế là chúng tôi đành phải cất mấy miếng thịt sống và ăn bắp chưa chín. Như để che phủ nỗi khốn cùng của chúng tôi, màn đêm buông xuống và một cơn mưa dông khủng khiếp đã biến con đường thành một dòng sông đầy bùn thật nguy hiểm. Mỗi lần chỉ có một xe tải được đi qua, vì vậy những xe ở gần chỗ đất lở được qua trước, tiếp theo là những xe ở bên phía chúng tôi. Xe của chúng tôi là một trong những xe đầu tiên của một hàng dài những xe tải, nhưng chiếc xe đầu tiên mất thăng bằng và đâm vào một chiếc xe máy kéo, thế là tất cả lại bị mắc kẹt. Cuối cùng một chiếc xe cần cẩu từ phía bên kia con dốc chạy xuống trục chiếc xe tải qua một bên đường, và đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh. Xe chúng tôi chạy suốt đêm, từ những thung lũng đến những đồng cỏ Peru giá lạnh, nơi chúng tôi phải hứng chịu những cơn mưa đá. Alberto và tôi ngồi yên một chỗ, răng đánh bò cạp vì lạnh và chúng tôi phải co duỗi chân liên tục để khỏi bị chuột rút. Cơn đói như một con thú kỳ lạ, không ở yên một chỗ mà lại ở khắp cơ thể, khiến chúng tôi trở nên bồn chồn và khó chịu.

Chúng tôi đến Huancallo vào lúc bình minh và phải đi bộ 15 dãy phố từ chỗ xe tải thả chúng tôi xuống tại đồn biên phòng. Chúng tôi mua một ít bánh mì, pha trà thảo dược và bắt đầu mang tim và lòng bò ra nấu tiếp, nhưng chưa kịp cho thêm than vào ngọn lửa mới nhóm thì một chiếc xe tải hướng đến Oxapampa cho chúng tôi quá giang. Chúng tôi muốn đi Oxapampa vì mẹ của một người bạn Argentina của chúng tôi đang sống ở đó. Chúng tôi hy vọng bà sẽ giúp chúng tôi giải quyết cơn đói trong vài ngày và có lẽ sẽ cho chúng tôi vài đồng sol. Vì vậy chúng tôi rời khỏi Huancallo mà chưa được tham quan nơi đây do bị thúc đẩy bởi tiếng than khóc của hai cái bao tử trống rỗng. Đoạn đầu của con đường thật là tuyệt vời, đi qua một số thị trấn, nhưng đến sáu giờ tối thì xe bắt đầu đổ dốc xuống một con đường cực kỳ hẹp và nguy hiểm, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe lọt qua. Thông thường thì người ta quy định chiều lưu thông vào những ngày cụ thể, nhưng vì những lý do không rõ mà luôn có những ngoại lệ vào những ngày này. Và xe tải nhường nhau để nhích từng chút qua bờ dốc cheo leo - một cảnh tượng chẳng yên tâm chút nào. Alberto và tôi nép mình trong một góc xe, sẵn sàng nhảy ra ngoài khi có dấu hiệu đầu tiên của tai nạn. Nhưng những người thổ dân chẳng hề sợ hãi. Nỗi sợ của chúng tôi là có căn cứ, bởi vì nhiều tai nạn đã xảy ra quanh chỗ núi non hiểm trở này. Bất cứ xe tải nào bị lệch ra khỏi đường sẽ cùng những hành khách của nó lao xuống vực sâu 200 mét, lao vào con sông đang sủi bọt bên dưới - và không hy vọng có ai sống sót. May mắn thay, lần này không có chuyện rủi ro xảy ra. Khoảng 10 giờ đêm, chúng tôi đến một ngôi làng mang tên La Merced, nằm trong một vùng đất thấp và có dáng vẻ của một ngôi làng trong rừng già nhiệt đới. Một tấm lòng nhân hậu đã nhường cho chúng tôi một cái giường để nghỉ qua đêm và một bữa ăn no. Bữa ăn được mang đến vào phút chót khi có một người đến xem chúng tôi có làm sao không, đúng vào lúc chúng tôi chưa kịp giấu một mớ vỏ cam dùng để làm dịu cơn đói.

Tại đồn biên phòng của thị trấn, chúng tôi được biết rằng không có xe nào dừng lại để trình giấy, và như thế rất khó để chúng tôi xin đi quá giang. Và chúng tôi cũng được nghe một vụ mưu sát mà thủ phạm bị nghi ngờ chính là con trai của nạn nhân và một người da ngăm đen, bạn của nạn nhân. Vụ mưu sát xảy ra một cách đầy bí ẩn vài ngày trước đó, và nghi can số một là anh con trai thổ dân. Viên trung sĩ cho chúng tôi xem tấm ảnh và nói, "Nhìn này các bác sĩ, hình ảnh điển hình của một tên sát nhân." Chúng tôi gật đầu, nhưng khi rời khỏi trạm cảnh sát tôi hỏi Alberto, "Ai mới thực sự là kẻ sát nhân?" Và suy nghĩ của anh rất giống tôi rằng gã da ngăm đen mới đáng nghi hơn người thổ dân. Trong nhiều giờ liền chờ xe, chúng tôi làm bạn với một người nói rằng anh ta có thể thu xếp mọi thứ mà chúng tôi không phải tốn một đồng nào. Để minh chứng cho lời nói, hắn nói chuyện với một tài xế xe tải và người này đồng ý chở chúng tôi. Nhưng một lát sau chúng tôi mới biết là hắn đã dàn xếp với tài xế chở chúng tôi với giá 15 đồng sol mỗi người, tức là rẻ hơn giá thông thường năm đồng. Chúng tôi nài nỉ là chúng tôi hoàn toàn rỗng túi, thực sự là chỉ còn lại vài xu. Hắn hứa là sẽ trả món nợ tiền xe, và đây là những gì hắn đã làm: chở chúng tôi trở về trong đêm ngay sau khi đã đến nơi. Không đến nỗi tệ hại như con đường hôm trước, con đường lần này hẹp nhưng khá đẹp, lượn qua khu rừng già hoặc một đồn điền trái cây nhiệt đới: chuối, đu đủ và những loại trái cây khác. Con đường hết lên dốc rồi lại xuống đồi suốt tuyến đường đến Oxapampa, khoảng 1.000 mét cao hơn mặt biển, đó là nơi đến của chúng tôi và cũng là điểm cuối của con đường.

Cho đến lúc này chúng tôi vẫn đi cùng xe với gã da ngăm đen, nhân vật đã được nói đến trong vụ mưu sát. Tại một chặng dừng giữa đường, hắn mua cho chúng tôi một phần ăn và lên lớp về cà phê, đu đủ và nô lệ da đen mà ông nội của hắn là một trong số đó. Hắn nói một cách cởi mở về vấn đề này, nhưng nếu để ý, bạn có thể thấy sự tủi nhục trong giọng nói của hắn. Lúc này, tôi và Alberto đồng ý rằng hắn không có liên quan đến vụ mưu sát người bạn của hắn.
35 - Làm khách không mời mà đến...
Chúng tôi chán nản cùng cực khi sáng hôm sau mới biết rằng người bạn Argentina đã cho chúng tôi thông tin không đúng và mẹ của anh ta đã lâu rồi không sống ở Oxapampa. Sống ở đó là một người anh em rể, vì vậy người này phải lãnh đủ trong việc giúp cho hai thân xác lang thang của chúng tôi khỏi chết đói. Sự tiếp đãi thật là nồng hậu và chúng tôi có một bữa ăn được làm ngay tại chỗ, nhưng chẳng bao lâu sau chúng tôi nhận ra rằng mình được tiếp đãi tử tế là do truyền thống lịch sự của người Peru. Nhưng chúng tôi quyết định quên hết mọi thứ để tiếp tục ăn tại nhà của những người bạn bất đắc dĩ, bởi chúng tôi đã cạn tiền và đã trải qua nhiều ngày đói khát.
Chúng tôi có một ngày thật tuyệt vời: tắm sông để cho tất cả ưu phiền tan biến, ăn nhiều thức ăn ngon và uống cà phê tuyệt hảo. Nhưng tất cả những điều tốt đẹp rồi thì cũng đau buồn đi đến hồi kết thúc, vì đến đêm ngày thứ hai, người kỹ sư ("ông chủ" của chúng tôi là kỹ sư) xuất hiện với một giải pháp có thể giúp ông thoát khỏi kiếp nạn này. Cách này không những hiệu quả mà còn đặc biệt rẻ: một thanh tra cầu đường đã đồng ý chở chúng tôi thẳng đến Lima. Đối với chúng tôi dường như đây là một ý kiến tuyệt vời, bởi vì chúng tôi muốn đến thủ đô để thử cải thiện thời vận. Nói một cách khác, đến Lima là một giải pháp vẹn toàn. Đêm hôm đó chúng tôi lên phía sau xe tải, và sau khi chúng tôi chịu trận với một cơn mưa lớn ướt tới tận xương, tài xế thả chúng tôi xuống San Ramon vào lúc hai giờ sáng, tức là chưa được nửa đường đến Lima. Tài xế nói rằng chúng tôi phải chờ trong khi hắn đổi xe và để trấn an, hắn để người phụ xế ở lại cùng chúng tôi. Sau 10 phút, gã đàn ông đó đi mua thuốc lá và cho đến năm giờ sáng thì hai gã thanh niên Argentina khôn ngoan này ăn sáng trong sự cay đắng khi nhận ra mình đã bị lừa. Tôi rủa thầm và cầu mong tên tài xế đó sẽ phải trả giá cho những lời nói dối của hắn: tài xế - dũng sĩ đấu bò sẽ chết trên chính cái sừng của một trong những con bò của hắn... (trong thâm tâm tôi biết có một điều gì đó không ổn nhưng dường như hắn là một người tốt mà chúng tôi đã tin tưởng ... ngay cả câu chuyện đổi xe.)

Đến rạng sáng, chúng tôi gặp hai tên say rượu và chúng tôi đã sử dụng mánh lới cũ như sau:

1. Nói lớn một điều gì đó để người ta nhận biết chúng tôi là người Argentina, đại loại như nói điều gì có tiếng "che" cùng với một số tiếng lóng và làm ra vẻ lè nhè. Khi cá đã cắn câu, chúng tôi bắt đầu gợi chuyện.

2. Bắt đầu nói về những nỗi khốn khổ nhưng không nên nói nhiều quá, trong khi đó mắt nhìn về một hướng xa xăm.

3. Tôi xen vào và hỏi ngày tháng; một người nào đó trả lời và Alberto thở dài nói, "Thật là trùng hợp, ngày này năm ngoái..." Đối tượng sẽ hỏi đó là ngày gì ; chúng tôi đáp rằng đó là lúc chúng tôi bắt đầu chuyến đi.

4. Alberto, trơ tráo hơn tôi, buông ra một tiếng thở dài và nói, "Thật là tệ hại khi tụi tôi phải ở trong tình cảnh như thế này, tụi tôi không thể tổ chức lễ kỷ niệm" (anh nói thì thầm như muốn giãi bày). Đối tượng ngay lập tức sẽ đề nghị được chi trả; chúng tôi giả vờ từ chối, ý muốn nói là chúng tôi không thể trả lại... và cuối cùng chúng tôi đành phải chấp nhận sự giúp đỡ đó.

5. Sau ly đầu tiên, tôi cương quyết từ chối không uống nữa và Alberto tỏ vẻ khó chịu. Đối tượng có vẻ giận và cố ép tôi uống, nhưng tôi từ chối mà không cho biết lý do. Đối tượng hỏi tới hỏi lui cho đến khi tôi bối rối thú thật rằng tập quán của người Argentina là uống thì phải ăn. Chúng tôi ăn nhiều hay ít là tùy thuộc vào nét mặt của khổ chủ. Nói chung, đây là một mánh lới rất công phu.
Ở San Ramon chúng tôi lấy bổn cũ soạn lại, và lúc nào chúng tôi cũng được ăn uống no nê. Sáng hôm đó, chúng tôi nghỉ ngơi tại bờ sông - khung cảnh ở đây thật đẹp, nhưng chúng tôi không còn hơi sức để thưởng thức cái đẹp và nhìn đâu cũng cố hình dung ra cái gì thơm ngon có thể ăn được. Nhìn lén qua hàng rào gần đó, chúng tôi thấy những quả cam tròn trĩnh; và chỉ trong một phút, bụng chúng tôi căng đầy nhưng cũng chứa đầy vị chua của acid. Và thế là cơn đói trở lại cồn cào và dữ dội hơn trước. Đói lả người, chúng tôi đành phải vứt luôn chút ít xấu hổ còn sót lại để tìm đến một bệnh viện địa phương. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được một người trong bệnh viện. Lần này Alberto cảm thấy rụt rè, và tôi phải lựa lời để nói:

"Thưa bác sĩ, tôi là sinh viên y khoa và bạn tôi là một nhà hóa sinh. Cả hai chúng tôi từ Argentina đến và chúng tôi đang đói bụng. Chúng tôi muốn ăn." Trước một cú tấn tấn công bất ngờ đánh động đến điều gì đó tận tâm can như thế, vị bác sĩ kia không thể làm gì khác ngoài việc mua cho chúng tôi một phần ăn tại một nhà hàng quen. Thật là trơ tráo và thắng thắn biết chừng nào! Tôi thầm tự nhận xét mình.

Alberto sau đó xấu hổ quá nên không thốt lên được một lời cám ơn, và chúng tôi tiếp tục đón một chiếc xe tải khác. Giờ đây ngồi thoải mái trong cabin của tài xế, chúng tôi đang hướng đến Lima. Thỉnh thoảng tài xế lại bao chúng tôi một chầu cà phê. Xe chúng tôi đang leo lên một con đường núi cực kỳ hẹp và nguy hiểm. Trong khi tài xế đang vui vẻ kể về lịch sử của mỗi giao lộ trên suốt đường đi thì xe lao vào một ổ gà lớn nằm rõ ràng ở giữa đường. Nỗi lo sợ tài xế không biết lái xe trong chúng tôi ngày càng tăng, nhưng linh tính bảo chúng tôi rằng điều này không thể xảy ra được. Với lòng kiên nhẫn và sự nhã nhặn, cuối cùng Alberto cũng tìm hiểu được vấn đề. Người tài xế này có một lần bị tai nạn làm thị lực của anh rất kém, đó là lý do tại sao anh cứ lao vào ổ gà. Chúng tôi cố làm cho anh ta hiểu sự nguy hiểm - cho anh ta và cho hành khách. Nhưng tài xế rất ngoan cố: đây là công việc của anh ta và ông chủ trả anh ta thật nhiều tiền không phải để lái như thế nào mà là anh có đồng ý lái xe hay không. Ngoài ra anh còn phải mua bằng lái với một giá tiền rất đắt.

Khi xe chạy xuôi theo con đường được một đoạn thì chủ xe xuất hiện. Dường như ông rất vui vẻ đồng ý cho chúng tôi đi nhờ đến Lima, nhưng chúng tôi phải ẩn nấp khi đến trạm kiểm soát, vì xe chở hàng không được chở hành khách. Chủ xe là một người tốt, cho chúng tôi thức ăn suốt trên đường đến thủ đô. Tuy nhiên, trước khi đến thủ đô, chúng tôi đã chạy qua La Oroya, một thị trấn khai thác mỏ mà chúng tôi rất muốn ghé vào nhưng xe không thể dừng lại được. La Oroya ở độ cao khoảng 4.000 mét, và từ dáng vẻ hoang sơ của thị trấn, bạn có thể hình dung được cảnh đời khốn khổ của thợ mỏ ở đây. Những ống khói cao nhả khói đen, bồ hóng bám trên mọi vật, bám trên gương mặt của thợ mỏ đang đi trên đường, đường phố ảm đạm mịt mùng trong khói, tất cả kết hợp lại thành một màu xám tẻ nhạt, rất hợp với những ngày xám xịt ở miền núi. Chúng tôi vượt qua điểm cao nhất trên đường, khoảng 4.853 mét so với mặt biển, trong khi trời vẫn còn sáng và lạnh kinh khủng. Rúc mình trong tấm chăn, nhìn ra xung quanh, tôi lẩm bẩm những câu thơ chắp nối đủ loại trong tiếng gầm rú của chiếc xe tải.
Đêm đó chúng tôi ngủ ở ngoại ô thành phố, và sáng sớm hôm sau chúng tôi tiến vào Lima.
36 - Lima - Thủ đô Peru
Chúng tôi đang ở vào giai đoạn cuối của một trong những chặng đường quan trọng nhất của cuộc hành trình, không một xu dính túi cũng chẳng có bao nhiêu cơ hội để kiếm tiền, nhưng chúng tôi rất vui. Lima là một thành phố đẹp, quá khứ thuộc địa của nó (sau khi chúng tôi thăm Cuzco) như bị đè nén bên dưới những ngôi nhà mới. Việc Lima được xem là một viên ngọc quý có vẻ hơi quá, nhưng nó có những đại lộ rộng thênh thang nối liền các khu dân cư ở ngoại ô với những khu nghỉ mát thật hài hòa nằm sát biển. Người dân Lima đi từ thành phố đến cảng Callao dọc theo nhiều trục lộ chính rộng lớn chỉ trong vài phút. Hải cảng không có gì đặc biệt hấp dẫn (với các công trình kiến trúc được tiêu chuẩn hóa), ngoại trừ pháo đài là dấu tích của nhiều trận chiến. Dọc theo những bức tường khổng lồ của pháo đài,chúng tôi đứng trầm trồ những chiến công phi thường của Cochrane khi ông lãnh đạo những thủy thủ châu Mỹ La tinh tấn công và chiếm pháo đài này, viết nên một trong những trang sử oai hùng nhất của phong trào giải phóng dân tộc châu Mỹ La tinh.
Nơi thật sự đáng được miêu tả ở Lima là khu vực trung tâm thành phố quanh ngôi giáo đường tuyệt vời, hoàn toàn khác với kiến trúc kỳ quái ở Cuzco mà thực dân Tây Ban Nha xây dựng để tự ca tụng họ một cách thô thiển. Ở Lima, nghệ thuật mang phong cách ước lệ, khuôn sáo, với một vẻ mềm mại: tòa tháp của ngôi giáo đường thật cao và duyên dáng, có lẽ đây là công trình kiến trúc thanh tú nhất trong số tất cả những ngôi giáo đường ở các thuộc địa của Tây Ban Nha. Phần trung tâm của ngôi giáo đường ngập tràn ánh sáng và không khí, hoàn toàn tương phản với những hang động tối tăm, đầy vẻ thù nghịch của một thành phố Inca. Những bức họa cũng sáng và rạng rỡ, mang phong cách cận đại hơn là tác phẩm của những họa sĩ lai căng vẽ những vị thánh trong cuồng nộ, ngục tù và bóng tối. Mặt tiền và bàn thờ của tất cả các nhà thờ đều mang phong cách nghệ thuật Churrigueresque(1) trang trí bằng vàng. Của cải đồ sộ này khiến giai cấp quý tộc chống lại những đoàn quân giải phóng châu Mỹ La tinh cho đến giây phút cuối cùng. Lima là một điển hình của Peru chưa phát triển vượt qua tình trạng phong kiến của một thuộc địa. Lima vẫn còn chờ đợi máu của một cuộc cách mạng giải phóng thật sự.

Nhưng có một góc của thành phố huy hoàng đã trở nên rất thân thương đối với chúng tôi, và chúng tôi vẫn thường đến đó để làm sống lại những kỷ niệm về Machu Picchu; đó là Viện bảo tàng Khảo cổ và Nhân chủng học. Người sáng lập là Don Julio Tello, một học giả mang dòng máu thổ dân thuần túy. Trong viện bảo tàng có những bộ sưu tập vô giá, tổng hợp toàn bộ những nền văn hóa châu Mỹ La tinh.

Lima hoàn toàn không giống như Cordoba, nhưng nó có cùng cái dáng vẻ của một thành phố thuộc địa, hoặc đúng hơn là có vẻ hơi tỉnh lẻ. Chúng tôi đến lãnh sự quán để nhận thư, và sau khi đọc xong, chúng tôi xem có thể làm gì với lời giới thiệu của một viên chức tại Phòng Ngoại Vụ. Tất nhiên là ông này không muốn biết chúng tôi. Chúng tôi lang thang từ trạm cảnh sát này đến trạm cảnh sát khác cho đến khi nhận được một dĩa cơm. Vào buổi chiều, chúng tôi thăm bác sĩ Hugo Pesce, một chuyên gia về bệnh phong. Vị bác sĩ này đã tiếp đón chúng tôi thật niềm nở so với vị trí đứng đầu một đơn vị y khoa đáng nể của ông. Ông dành cho chúng tôi một chỗ nghỉ tại bệnh viện phong và tối hôm đó mời chúng tôi ăn tại nhà riêng. Ông là một người nói chuyện rất lôi cuốn, và mãi đến khuya chúng tôi mới đi ngủ.

Chúng tôi thức dậy và ăn sáng rất trễ, hiển nhiên là không có chỉ thị nào về việc tiếp tục thết đãi chúng tôi, vì vậy chúng tôi quyết định thả bộ xuống khu Callao và thăm bến cảng. Chuyến đi thật là chậm vì hôm đó là ngày 1 tháng 5, không có phương tiện chuyên chở công cộng, và chúng tôi phải cuốc bộ 14 cây số. Tại Callao chẳng có gì đặc biệt để xem, có rất ít thuyền của Argentina. Mặt dày mày dạn hơn bao giờ hết, chúng tôi trình diện tại một trạm cảnh sát và xin một ít thức ăn rồi rút nhanh về Lima. Một lần nữa, chúng tôi đến ăn tại nhà bác sĩ Pesce. Ông kể cho chúng tôi những kinh nghiệm về các loại bệnh phong khác nhau. Sáng hôm sau, chúng tôi thăm Viện bảo tàng Khảo cổ và Nhân chủng học. Thật là tuyệt vời, nhưng chúng tôi không có đủ thời gian để tham quan mọi thứ. Buổi chiều chúng tôi đến làm quen với bệnh viện phong De Guia, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Molina, một chuyên gia về bệnh phong và cũng là nhà phẫu thuật tạo hình ngực xuất sắc. Theo thói quen, chúng tôi đến ăn tại nhà bác sĩ Pesce.

Chúng tôi mất cả một buổi sáng thứ Bảy tại trung tâm thành phố để cố đổi 50 đồng curon Thụy Điển; chạy ngược chạy xuôi, cuối cùng chúng tôi cũng đổi được tiền. Buổi chiều chúng tôi đến thăm phòng thí nghiệm y khoa. Phòng thí nghiệm này chẳng có gì để chúng tôi phải ganh tỵ, trái lại còn có nhiều thứ cần phải bổ sung. Tuy nhiên, các bản thư mục thật đáng nể ở sự rõ ràng sáng sủa, ở phương pháp tổ chức cũng như trong các chi tiết dễ hiểu của chúng. Buổi tối, tất nhiên là chúng tôi đến ăn tại nhà bác sĩ Pesce, và một lần nữa ông lại chứng tỏ mình là một người hoạt bát với những câu chuyện thật sống động.

Chủ Nhật là một ngày quan trọng. Chúng tôi sẽ được xem đấu bò lần đầu tiên, và mặc dù những con bò và đấu sĩ ở đây không đúng tiêu chuẩn, chúng tôi cũng thấy vô cùng thích thú đến nỗi hầu như tôi không thể tập trung vào một trong những cuốn sách của Tello mà tôi đọc trong thư viện vào buổi sáng. Chúng tôi đến khi trận đấu vừa mới bắt đầu và ngay sau khi chúng tôi vào thì đã có một người đang giết con bò, nhưng không phải theo cách thông thường, mà bằng nhát dao ân huệ(1). Kết quả là con bò ngã lăn ra đất, trong khi đấu sĩ cố kết liễu nó trong tiếng reo hò của khán giả. Trận đấu thứ ba thật là hào hứng khi con bò húc vào bụng đấu sĩ và hất anh ta lên không, nhưng tất cả chỉ có thế. Lễ hội kết thúc bằng cái chết của sáu con bò. Nghệ thuật, tôi chẳng thấy gì; lòng can đảm, ở một mức độ nào đó; kỹ năng, không nhiều; hào hứng, tương đối. Nói chung, tất cả tùy thuộc vào việc bạn có gì để làm hay không vào ngày Chủ Nhật.

Sáng thứ hai, chúng tôi lại đến Viện bảo tàng. Vào buổi tối, chúng tôi đến nhà bác sĩ Pesce, tại đây chúng tôi gặp bác sĩ Valenza, giáo sư về tâm thần học, một người nói chuyện rất hấp dẫn. Ông kể cho chúng tôi những giai thoại trong chiến tranh và những câu chuyện đại loại như: "Ngày hôm kia tôi đến rạp xinê ở địa phương xem phim của danh hài Cantinflas(2). Mọi người cười nhưng tôi chẳng hiểu gì cả. Điều này không phải là kỳ lạ; những người còn lại cũng không hiểu gì hết. Thế thì tại sao họ lại cười? Thực ra, họ cười chính họ. Đất nước chúng tôi còn non trẻ, không có truyền thống hoặc văn hóa, đất nước chúng tôi chỉ mới được khám phá thôi. Vì vậy họ cười chế nhạo nền văn minh ấu trĩ của chúng tôi... Nhưng thử hỏi bây giờ Bắc Mỹ đã hoàn toàn trưởng thành chưa, cho dù họ có những tòa nhà cao tầng, xe hơi, và lắm của cải? Họ có quên thời kỳ non trẻ của họ không? Không, sự khác biệt chỉ là hình thức mà thôi, không phải là chủ yếu. Tất cả các nước châu Mỹ đều là anh em. Xem Cantinflas đóng, tôi đã thấy thấm thía tình cảnh của toàn châu Mỹ."

Thứ ba, chúng tôi lại thăm Viện bảo tàng và thấy chẳng có gì thay đổi. Vào lúc ba giờ chiều chúng tôi gặp bác sĩ Pesce. Ông cho Alberto một bộ complê trắng và tôi được một áo jacket cùng màu. Tất cả mọi người đều đồng ý là bây giờ chúng tôi mới ra dáng con người. Thời gian còn lại trong ngày chẳng có gì quan trọng. Nhiều ngày trôi qua và chúng tôi đã sẵn sàng lên đường, nhưng vẫn chưa chắc chắn sẽ ra đi ngày nào. Chúng tôi dự tính ra đi vào hai ngày trước đó, nhưng chiếc xe tải chịu chở chúng tôi chưa rời bến. Nhiều yếu tố trong cuộc hành trình đã tiến triển tốt đẹp. Về mặt mở mang kiến thức, chúng tôi thăm viếng Viện bảo tàng và các thư viện. Nhưng chỉ có một nơi đáng nói là Viện bảo tàng Khảo cổ và Nhân chủng học do bác sĩ Tello thành lập. Về mặt khoa học, đó là chuyên ngành về bệnh phong, chúng tôi đã gặp bác sĩ Pesce, những người khác chỉ đáng làm học trò của ông, và còn lâu lắm họ mới tạo ra được một cái gì xứng đáng. Vì không có những nhà sinh hóa tại Peru, phòng thí nghiệm được điều khiển bởi các bác sĩ chuyên gia. Alberto đã nói chuyện với một số bác sĩ và giới thiệu cho họ có thể liên lạc với những bác sĩ ở Buenos Aires. Anh nói chuyện tương đắc với hai bác sĩ nhưng đến người thứ ba thì... Alberto tự giới thiệu mình là bác sĩ Granado, chuyên gia về bệnh phong... và họ coi anh là bác sĩ y khoa. Vì vậy mà anh chàng ngốc nghếch này trả lời câu hỏi của Alberto: "Không, ở đây không có nhà sinh hóa. Luật pháp nghiêm cấm bác sĩ mở tiệm thuốc tây, chúng tôi không cho các dược sĩ can thiệp vào những điều mà họ không hiểu." Alberto sắp sửa nổi giận, vì vậy tôi thúc cùi chỏ ngăn cản anh. Mặc dù giản đơn, nhưng một trong những điều lưu lại ấn tượng sâu sắc trong chúng tôi tại Lima là cách bệnh nhân ở bệnh viện phong từ biệt chúng tôi. Họ quyên góp được một ít tiền cho chúng tôi kèm theo một lá thư đầy những lời lẽ thắm thiết. Sau đó một số bệnh nhân đích thân đến từ biệt chúng tôi và nước mắt đã tuôn rơi khi họ cảm ơn chúng tôi về một chút cuộc sống chúng tôi đã mang lại cho họ. Chúng tôi bắt tay họ, nhận quà, và cùng ngồi lắng nghe với họ buổi tường thuật bóng đá trên radio. Nếu có một điều gì đó khiến chúng tôi cống hiến cuộc đời mình cho ngành điều trị phong, thì đó chính là những tình cảm thân thương mà chúng tôi nhận được nơi tất cả bệnh nhân phong mà chúng tôi đã gặp trong cuộc hành trình. Là một thành phố, Lima không sống theo truyền thống xưa cũ như là một nơi dành cho những bậc vương giả, nhưng những khu dân cư ở ngoại ô thì rất đẹp, thoáng mát và có cả những con đường mới. Một điều thú vị là có quá nhiều cảnh sát bao quanh đại sứ quán Colombia. Có khoảng không dưới 50 cảnh sát mặc sắc phục và cảnh sát chìm đang làm nhiệm vụ bảo vệ thường xuyên quanh toàn bộ khu nhà.

Ngày đầu tiên của chuyến đi khỏi Lima không có gì quan trọng. Chúng tôi thấy con đường lên đến La Oroya và cả đêm chúng tôi đi suốt con đường đó, đến Cerro de Pasco lúc bình minh. Đi cùng chúng tôi có anh em nhà Becerra, mà chúng tôi gọi tắt là Cambalache(1) hay Camba. Họ là những người rất tốt, đặc biệt là người anh. Chúng tôi tiếp tục lái xe cả ngày, chạy xuống những nơi phong cảnh tuyệt đẹp, nhưng cơn đau đầu và cảm giác muốn bệnh mà tôi có từ Ticlio, ở độ cao 4853 mét trên mặt biển, trở nên nặng hơn. Khi chúng tôi chạy qua Huanuco và đến gần Tingo Maria, trục bánh xe trước bị gãy, nhưng may mắn thay, bánh xe chỉ kẹt vào thanh chắn bùn. Đêm hôm đó chúng tôi phải ở nguyên một chỗ. Tôi cần phải chích thuốc, nhưng thật là may, ống tiêm đã bị vỡ. Ngày hôm sau không có chuyện gì xảy ra và tôi lại lên cơn suyễn, nhưng tối hôm đó Alberto bằng giọng buồn buồn nói hôm nay, 20 tháng 5 là kỷ niệm sáu tháng ngày chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình. Đó là cái cớ để rượu pisco tuôn chảy. Cho đến chai thứ ba, Alberto loạng choạng đứng lên, thả con khỉ nhỏ mà anh đang bồng trên tay, và biến đi. Camba em tiếp tục uống nửa chai nữa, rồi lăn đùng xuống đất.

Chúng tôi phải ra đi vội vàng vào sáng hôm sau, trước khi bà chủ nhà trọ đánh thức chúng tôi dậy, bởi vì chúng tôi chưa trả tiền ăn ở và anh em nhà Camba dùng tiền để sửa trục bánh xe nên chẳng còn bao nhiêu. Chúng tôi lái xe suốt ngày cho đến khi phải dừng lại tại rào cản do quân đội dựng lên để cấm người ta đi qua khi trời mưa lớn. Ngày hôm sau chúng tôi lại lên đường và một lần nữa bị chặn lại tại một rào cản khác. Mãi đến chiều tối họ mới cho chúng tôi qua, tuy nhiên chúng tôi lại bị chặn tại một thị trấn nhỏ tên là Nescuilla, chặng dừng cuối cùng trong ngày. Ngày hôm sau đường vẫn còn bị cấm, vì vậy chúng tôi đến một chốt gác của quân đội để xin một ít thức ăn. Chúng tôi ra đi vào buổi chiều, mang theo một binh sĩ bị thương, và nhờ mánh lới này mà chúng tôi có thể vượt qua các chốt chặn của quân đội một cách dễ dàng: hàng đoàn xe tải bị chặn lại nối đuôi nhau đến vài kilômét, còn xe của chúng tôi được phép chạy qua và chúng tôi đã đến Pucallpa vào lúc trời tối. Camba em trả tiền ăn cho chúng tôi và để từ biệt, chúng tôi uống hết bốn chai rượu vang khiến hắn lên tinh thần và hứa hẹn đủ thứ. Sau đó hắn còn trả tiền khách sạn cho chúng tôi. Mục tiêu lớn trước mắt là đến Iquitos, vì vậy chúng tôi tập trung mọi nỗ lực để đến được nơi đây. Người đầu tiên mà chúng tôi liên hệ là viên thị trưởng, một người được gọi là Cohen. Chúng tôi đã nghe nói nhiều về ông này, rằng ông ta là người Do Thái keo kiệt, nhưng chúng tôi thấy ông là một người tốt. Chắc chắn ông ta là một kẻ bủn xỉn; vấn đề cần xác định là ông ta có phải là người tốt hay không. Ông ta từ chối khéo bằng cách giới thiệu chúng tôi đến những nhân viên phụ trách vận tải bằng đường biển. Những người này lại bảo chúng tôi đến gặp thuyền trưởng. Ông này cũng tử tế hứa cho chúng tôi đi vé hạng nhất mà sau đó chỉ trả tiền vé hạng ba. Chúng tôi chẳng thích điều này chút nào, và vì vậy chúng tôi đến gặp chỉ huy trưởng một đơn vị đồn trú, và người này nói ông ta không thể làm được điều gì để giúp đỡ chúng tôi. Rồi chúng tôi đến gặp chỉ huy phó. Sau một hồi tra hỏi (và làm như thế chỉ lộ ra sự ngu ngốc của hắn), người này đã hứa giúp. Chiều hôm đó chúng tôi đi bơi trên sông Ucayali. Sông này trông rất giống thượng nguồn sông Parana. Chúng tôi tình cờ gặp viên chỉ huy phó và hắn nói đã dành nhiều ưu ái cho chúng tôi: thuyền trưởng đã đồng ý cho chúng tôi đi vé hạng nhất mà chỉ trả tiền vé hạng ba. Làm như ghê gớm lắm!

Rất hiếm có cá Bufeo (theo cách gọi của dân địa phương) tại dòng sông mà chúng tôi đang bơi. Truyền thuyết kể rằng những con cá này ăn thịt đàn ông, cưỡng hiếp phụ nữ và làm hàng ngàn tội ác dã man khác. Có vẻ đó là một loại cá heo nước ngọt, và một trong những đặc điểm kỳ lạ của loài cá này là chúng có bộ phận sinh dục giống như của phụ nữ. Vì vậy thổ dân dùng chúng để thay cho phụ nữ, có điều sau khi giao hợp họ phải giết con cá ngay bởi vì bộ phận sinh dục của nó co lại và dương vật không thể rút ra được. Tối hôm đó, chúng tôi phải khổ sở đến gặp các đồng nghiệp ở bệnh viện để xin chỗ ngủ. Tất nhiên là họ rất lạnh lùng tiếp đón chúng tôi, và chắc là họ đã đuổi chúng tôi đi nếu như vẻ bình thản của chúng tôi không chinh phục được họ. Chúng tôi được cho hai cái giường để ngả lưng.
(nguồn từ website www.reds.vn)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét